TÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ (trích Chinh phụ ngâm)
Không có phản hồi
TÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ (trích Chinh phụ ngâm) I – NHỮNG TRI THỨC CẦN BỔ TRỢ
Chinh phụ ngâm, nguyên văn chữ Hán, do Đặng Trần Côn sáng tác. Hiện nay vẫn chưa rõ năm sinh và năm mất của Đặng Trần Côn, chỉ biết rằng ông là người làng Nhân Mục , huyện Thanh Trì (nay thuộc Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sống vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII. Ông nổi tiếng vì ham học, học giỏi. Theo ghi chép của Phạm Đình Hổ, Đặng Trần Côn đã từng đào hầm để đốt đèn học dưới hầm do đương thời chúa Trịnh Giang mắc bệnh lạ, cấm lửa rất ngặt ở kinh thành Thăng Long về đêm. Ông có nhiều sáng tác người đương thời truyền tục, nhất là các bài phú.
Chinh phụ ngâm ra đời do sự gợi hứng của hoàn cảnh lịch sử thực tế. Phan Huy Chú viết trong Lịch triều hiến chương loại chí: “Vì đầu đời Cảnh Hưng có việc binh đao, cảnh biệt ly của người đi chinh thú khiến ông cảm xúc mà làm” (Đời Cảnh Hưng năm đầu là 1740). Thời gian này, có nhiều cuộc nổi dậy của nông dân chống lại chính quyền Lê- Trịnh thối nát. Triều đình phải quân đi đánh dẹp các cuộc nổi dậy đó.
Vấn đề dịch giả của bản dịch hiện nay vẫn chưa rõ. Có người cho rằng đó là Đoàn Thị Điểm (1705- 1748), có người lại cho rằng cuộc Phan Huy Ích (1750- 1822)
Đề tài người chinh phụ là một đề tài khá phổ biến của thi ca cổ điển Trung Quốc, nhất là thơ Đường. Khi viết Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn đã có một nguồn văn liệu dồi dào để tham khảo và học tập. Ông đã mượn khá nhiều tứ thơ, ý thơ, thậm chí có một số bài thơ để ghép thành tác phẩm mới.
Người phụ nữ trong xã hội phong kiến phương Đông được giáo dục theo tinh thần “công, dung, ngôn, hạnh”, với những đức tính như nhẫn nhục chịu đựng, cam chịu. Hôn nhân theo ý cha mẹ, “cha mẹ đặt đâu con ngồi ngồi đấy”, người phụ nữ đã bị đặt vào thế bị động, thụ động, không có quyền chủ động đối với tình yêu và hạnh phúc cá nhân. Một số người không may góa chồng từ lúc tuổi còn trẻ lại được xã hội Nho giáo, xã hội nam quyền khuyến khích ở vậy cho đến già, không tái giá. Thơ ca thời cổ trung đại rất ít viết về người phụ nữ, lại càng ít viết về tâm tư tình cảm, tình yêu nam nữ. Trong bối cảnh văn hóa ấy, ta thấy đáng trân trọng biết bao những tác phẩm đã đặt vấn đề về hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn có ý nghĩa mới, mang tinh thần nhân đạo sâu sắc ngay từ tên gọi: đây là khúc ngâm, tức là tác phẩm ghi lại những lời than thở buồn bã của người vợ lính. Lần đầu trong lịch sử văn học nước ta, tác giả để cho tâm tình sâu kín của người phụ nữ được bộc bạch, thầy một cách hệ thống. Người phụ nữ vẫn “im hơi lặng tiếng” trong lịch sử văn học này đã cất lên tiếng nói đầy chất nữ tính của mình, với những đau khổ, những khát khao, những mơ mộng, những nỗi buồn, niềm mong đợi, sự nhớ thương, sự tuyệt vọng. Tất cả các tâm trạng đều xoay quanh niềm khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Đây chính là cái mới, là đóng góp của Đặng Trần Côn trong lịch sử văn học, thậm chí có thể nói rằng đây là một cuộc cải cách nhỏ đối với văn học trung đại. Khi phân tích đoạn trích phải chú ý đến công hiến quan trọng này của tác giả
Chinh phụ ngâm thuộc thể loại thơ trữ tình. Thơ trữ tình lấy tâm trạng, cảm xúc làm đối tượng; khác với văn xuôi tự sự lấy sự kiện, hành động làm đối tượng. Việc phân tích thơ trữ tình cần chú ý đến thế giới nội tâm của nhân vật trữ tình, nói cụ thể hơn đó là nội dung tâm trạng và cách thể hiện tâm trạng nhân vật. Đặng Thai Mai đã viết rất đúng: nếu như tập Chinh phụ ngâm có bao hàm ít nhiều đặc sắc đó, thì chính là địa vị của tâm lý và cách diễn tả tâm lý của con người” (Đặng Thai Mai, giảng văn Chinh phụ ngâm)
Nhưng tâm lý, tâm trạng hay cảm xúc của con người vốn rất trừu tượng, vô hình, không thể nhận biết bằng giác quan được. Do đó, nhà thơ phải dùng các kĩ thuật miêu tả sao cho cái tâm lý vô hình đó hiện ra một cách hữu hình, người đọc có thể bằng các giác quan mà cảm nhận được thế giới nội tâm bên trong sâu kín ấy. Phân tích nghệ thuật tả tâm lý chính là phân tích kĩ thuật đó. Chinh phụ ngâm gồm 478 câu thơ làm theo thể trường đoản cú (câu thơ dài ngắn không đều nhau). Khúc ngâm nguyên văn chữ Hán được dịch ra tiếng Việt bằng thể thơ song thất lục bát rất thành công. Nhờ kinh nghiệm này, hầu hết các khúc ngâm, thán, văn đều dùng thể thơ song thất lục bát. Phân tích đoạn trích cũng cần lưu ý đến vai trò của thể thơ song thất lục bát trong việc hình thành đặc điểm của ngâm khúc
II- PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH
Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ thuộc đoạn thơ từ câu 193 đến câu 216 trong tác phẩm. Nội dung tóm tắt của 193 câu thơ trước đó như sau: sau khi tiễn đưa người chồng ra trận, chinh phụ trở về chờ đợi và hy vọng rằng mau chóng gặp lại chồng, vì chàng đã hứa trong buổi lên đường là sẽ mau chóng trở về sống đoàn tụ. Nhưng các mốc thời gian mà trả hết ước đều trôi qua mà chinh phụ vẫn sống trong cô đơn. Nàng rời nhà ra đi tìm gặp người chồng tại những điểm hẹn trước nhưng vẫn không thấy bóng chàng. Nàng đành quay trở về chốn khuê phòng, bắt đầu chuỗi ngày tháng sống mòn mỏi trong khắc khoải chờ mong
Đoạn trích diễn tả sự tù túng, quẩn quanh đầy buồn khổ, bế tắc của người chinh phụ cô đơn, khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi trong một không gian chật hẹp của căn phòng vắng lặng hay trên hiên nhà.
2.Hình tượng người chinh phụ Qua cảnh trí nhà ở và các vật dụng cũng như bối cảnh xung quanh có thể khẳng định chinh phụ thuộc tầng lớp bên trong xã hội. Nàng không phải chịu nỗi khổ thiếu thốn về vật chất hay bị bóc lột về lao động như những người phụ nữ tầng lớp bình dân. Nỗi khổ của nàng thuộc về tinh thần, tình cảm. Đây là người phụ nữ khao khát tình yêu và hạnh phúc lứa đôi. Sống trong cô đơn, không có bất cứ một tin tức nào của người chồng để biết chàng còn sống hay đã chết, nàng vô cùng buồn khổ. Các từ ngữ “bi thiết”, “buồn rầu”, “mối sầu dằng dặc”, “thiết tha lòng” (lòng đau đớn như bị mài cắt) tập trung nói lên điều đó.
Như đã nói trong mục “ tri thức văn hoá”, đóng góp của Đặng Trần Côn là đã để cho người phụ nữ chinh phụ nói lên mọi niềm nỗi niềm sâu kín của mình về tình yêu, hạnh phúc. Trong đoạn trích, tất cả các từ ngữ vừa kể trên đều là phát ngôn trực tiếp của nhân vật chinh phụ. Nàng trực tiếp than thở về nỗi buồn chán của mình khi sống cô đơn: -Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi. Buồn rầu nói chẳng nên nên lời -Lòng này gửi gió đông có tiện? Nghìn vàng xin gửi đến non Yên Non yên dù chẳng tới miền, Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu, Nỗi nhớ tràn đau đầu nào xong.
Chinh phụ ngâm mở đầu cho giai đoạn văn học thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX với người phụ nữ đã chủ động dám bộc lộ khát vọng tình yêu và hạnh phúc.
Như đã nói, nội tâm vốn vô hình, trừu tượng; để tả nội tâm, nhà văn phải biến cái vô hình thành cái hữu hình. Tác giả đã áp dụng những kĩ thuật tạo nào, ý nghĩa của các thủ pháp đối ra sao ? Nhìn chung có thể quy kết phủ pháp về ba nhóm chủ yếu sau đây:
Tả ngoại hình để bộc lộ nội tâm, cụ thể tả chinh phụ với vẻ mặt buồn chẳng nói nên lời, soi gương thấy khôn khuôn mặt đẫm lệ. Hành động: các động tác “dạo”, “thầm gieo từng bước” trên hiên nhà; ngồi trước rèm hết hạ xuống lại kéo lên; gượng gạo làm những công việc quen thuộc thường nhật: gượng đốt hương, gượng soi gương, gượng gảy đàn,… Tất cả những công việc thường nhật đó nay có thể gợi lên nỗi đau khổ vì lứa đôi bị chia lìa. Mùi hương có thể khiến tâm hồn như thêm mê man; soi gương thấy dung nhan tiều tụy có thể khiến nước mắt chan chứa; cầm đàn sợ gảy vì ngại làm đứt dây đàn uyên ương, làm trùng phím đàn loan phượng (tượng trưng cho tình yêu lứa đôi)
Hương gượng đốt hồn đà mê mải Gương gượng soi lệ lại châu chan Sắt cầm gượng gảy ngón đàn Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.
Không gian trong đoạn trích là không gian hẹp, thích hợp với nhu cầu diễn tả tâm trạng bế tắc, tù túng. Căn phòng chỉ mở ra bên ngoài bằng một tấm rèm, kéo lên lại hạ xuống. Căn phòng lẽ ra ấm cúng nếu có người chồng ở nhà thì nay trở nên chật hẹp, bế tắc. Chỉ thấy mấy việc đốt hương, soi gương gảy đàn đầy gượng gạo tưởng như vô hồn. Căn phòng nơi người chinh phụ đang sầu khổ và chiến địa nơi người chinh phụ đang hành quân bị ngăn cách bởi muôn trùng núi non hiểm trở xa xăm. Để vượt qua không gian vời vợi đó, chinh phụ chỉ biết trông cậy vào làn gió xuân:
Lòng này gửi gió đông có tiện? Nghìn vàng xin gửi đến non Yên Non Yên dù chẳng tới miền, Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Bên cạnh căn phòng cũng là một không gian chật hẹp: đó là cái hiên vắng, nơi có nàng dạo qua dạo lại. Rộng hơn một chút là sân và những hàng cây bao quanh nhà. Sự chật hẹp của không gian làm tăng cảm giác bế tắc của người chinh phụ, tăng thêm sự đau khổ cho nàng.
Thời gian trong đoạn trích cũng được chọn lọc: thời gian về đêm được nhấn mạnh. Cảnh đêm dễ làm nổi bật sự cô đơn vì trong phòng chỉ có ngọn đèn vô tri vô giác đối diện với chủ nhân của nó đang rất cần sự chia sẻ, cảm thông với nỗi niềm cô đơn:
Đèn có biết dường bằng chẳng biết Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Trong đêm khuya, tiếng gà eo óc gáy lại làm thêm tăng thêm sự quạnh vắng, lạnh lẽo của đêm dài. Những cây hoa hoè quanh nhà trong đêm rủ bóng không khác gì người chinh phụ một đèn một bóng:
Gà eo óc gáy sương năm trống, Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Không phải ngẫu nhiên mà thơ xưa tả sự cô đơn bằng cảnh đêm với tiếng gà gáy, chẳng hạn “Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom” ( Hồ Xuân Hương). Trong đêm, tiếng rì rào của côn trùng cũng góp phần diễn tả sự cô đơn của chính phụ.
Mùa đông với những cành cây phủ đầy sương giá cũng tạo nên không gian, thời gian đặc thù để tả nỗi buồn, cảm giác cô đơn của người chinh phụ.
Phần lớn ngôn ngữ trong Chinh phụ ngâm là ngôn ngữ trực tiếp của chinh phụ. Có thể dễ dàng tìm ra ngôn ngữ nhân vật trong đoạn trích. Ví dụ:
Đèn có biết dường bằng chẳng biết Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Ngôn ngữ trực tiếp khiến cho tâm trạng bộc lộ chân thực hơn, bởi vì được nhìn từ bên trong, qua trải nghiệm của chính nhân vật.
Thể thơ song thất lục bát được sử dụng trong bản dịch hiện hành đã góp phần vào sự thành công của bản dịch. Thể thơ này được cấu tạo bởi hai câu lục bát truyền thống dân tộc kết hợp với hai câu thất ngôn. Tổng số chữ là 28, bằng số chữ của một bài thơ tứ tuyệt nhưng có những đặc điểm rất khác. Đặc điểm dễ nhận thấy nhất là thể thơ này có cả hai loại vần vần lưng (yêu vận) và vần chân (cước vận). Do đó, số vị trí hiệp vần nhiều hơn thơ tứ tuyệt, khiến cho câu thơ có nhiều chất nhạc hơn. Cũng có cả hiệp vẫn ở vần lưng và vần chân nên các khổ thơ song thất lục bát có thể kết nối với nhau thành một bài văn dài vài trăm câu hệt như thể lục bát, thỏa mãn yêu cầu vừa kể chuyện, vừa tả tâm trạng.
So với thơ lục bát, song thất lục bát có hai câu thất ngôn bảy chữ đối xứng nhau. Việc xen kẽ một cặp câu thơ đối nhau với hai câu lục và bát (sáu và tám) chữ khiến cho nhịp điệu của khổ thơ cũng phong phú hơn thơ lục bát.
Nhìn chung thể song thất lục bát có nhạc điệu dồi dào, tạo thành các chu kỳ lặp đi lặp lại, thích hợp diễn tả các tâm trạng buồn, tức là kết hợp với thể loại ngâm khúc với đặc trưng chính là than thở, than vãn.
Phần I. Đọc hiểu (3 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: Em là ai ? Cô gái hay nàng tiên Thịt da em hay là sắt là đồng ? Cho tôi hôn bàn chán em lạnh ngắt Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung Ôi trái tim em trái tim vĩ đại Còn một giọt máu tươi còn đập mãi Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời Cho quê hương em. Cho Tổ quốc, loài người! (Người con gái Việt Nam, Tố Hữu, Gió lộng, NXB Văn học, 1961) Câu 1: Đoạn trích trên được sáng tác vào giai đoạn văn học nào? Câu 2: Hình tượng nhân vật trung tâm của đoạn thơ là ai? Hình tượng nhân vật ấy được tác giả thế hiện với thái độ gì? Câu 3: Anh (chị) hãy chỉ ra và phân tích giá trị của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng ở đoạn thơ đầu. Câu 4: Trong khoảng từ 5 – 7 dòng, trình bày suy nghĩ của anh chị về vấn đề lẽ sống của tuối trẻ được đặt ra trong khổ thơ cuối cùng của đoạn trích . Phần II. Làm văn (7 điểm) Câu 1 (2 điểm): Bằng đoạn văn khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của anh (chị) về bài học mà người cha muốn nói với con trong bài thơ sau: Chẳng ai muốn làm hành khất Tội trời đày ở nhân gian Con không được cười giễu họ Dù họ hôi hám úa tàn Nhà mình sát đường họ đến Có cho thì có là bao Con phải răn dạy nó đi Nếu không thì con đem bán Mình tạm gọi là no ấm Ai biết cơ trời vần xoay Lòng tốt gửi vào thiên hạ Biết đâu nuôi bố sau này… (Dặn con, Trần Nhuận Minh) Câu 2 (5 điểm): Có ý kiến cho rằng: Sông Hương là bản tình ca ca ngợi về thiên nhiên và văn hóa xứ Huế. Qua phân tích tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường), hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. |
THẦY KHƯƠNG TRÊN FACEBOOK
|