Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nữ nổi tiếng của nền văn học trung đại, có nhiều đóng góp quan trọng cho văn học dân tộc. Hiện nay, người ta vẫn chưa tìm được nguồn tư liệu tin cậy cho biết về năm sinh, năm mất của bà. Một số sách cho rằng bà là con của Hồ Phi Diễn (1704 – ? ), quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông thân sinh bà ra Bắc dạy học, lấy vợ lẽ là người Bắc Ninh và sinh ra Hồ Xuân Hương. Gia đình bà ta đã từng sống ở phường Khán Xuân gần Hồ Tây (Hà Nội). Bà là người thông minh, có học, có tài thơ văn xuất sắc, nhưng cuộc đời riêng thì gặp nhiều éo le, trắc trở và bi kịch. Nhờ có tài năng xuất sắc mà bà có mối quan hệ với khá nhiều danh sĩ đương thời. Sự nghiệp văn chương của bà để lại cho đời có khoảng 50 bài thơ chữ Nôm và tập thơ Lưu Hương kí viết bằng chữ Hán. Thơ của bà mang một phong cách rất riêng, rất độc đáo : khi trào phúng thì sắc nhọn, đáo để, khi trữ tình thì tê tái xót đau nhưng đều có giá trị nhân đạo sâu sắc. Bà được mệnh danh là Bà Chúa Thơ Nôm.
Bài thơ Bánh trôi nước được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, còn gọi là tuyệt cú.
II – PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
Bánh trôi nước là một bài thơ độc đáo
Bài thơ độc đáo trước hết bởi nội dung, tác giả vịnh một sự vật bình thường chứ không phải một sự vật có tính chất cao quý theo quan niệm của thơ ca cổ. Bài thơ viết về một món ăn quen thuộc, dân dã của đời sống dân gian – đó là món bánh trôi, thứ bánh được làm từ bột gạo nếp, nhân bánh bằng đường phên cắt nhỏ, thường làm vào ngày 3– 3 âm lịch để cúng. Có lẽ, Hồ Xuân Hương là thi sĩ đầu tiên của văn học Việt Nam đã mạnh dạn, táo bạo đưa một món ăn dân dã, truyền thống của dân tộc làm đề tài trong tác phẩm của mình.
Tuy nhiên, tính độc đáo có giá trị nhất của bài thơ lại ở ý nghĩa ẩn dụ của nó. Đề tài bánh trôi nước chỉ là lớp nghĩa bên ngoài. Ẩn sau lớp nghĩa đó là một tầng nghĩa mang giá trị nhân đạo sâu xa : Khẳng định, ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ, đồng thời tố cáo, lên án chế độ phong kiến đã đối xử bất công với họ. Vì vậy, giống như một số bài thơ thuộc đề tài ngâm vịnh sự vật khác của Hồ Xuân Hương, bài thơ có hai đề tài và chứa đựng hai lớp nghĩa, mà hiểu theo lớp nghĩa nào bài thơ cũng chứa đựng những giá trị sâu sắc.
Vẻ đẹp của người phụ nữ và ý nghĩa về một xã hội bất công đã vùi dập họ
Câu thơ mở đầu như một lời tự bạch của chiếc bánh trôi : Thân em vừa trắng lại vừa tròn. Cụm từ vừa trắng lại vừa tròn gợi hình ảnh chiếc bánh trôi làm bằng bột nếp tròn trịa, xinh xắn, có sắc trắng mịn màng. Nghệ thuật nhân hóa, để chiếc bánh tự kể về mình “thân em…” làm đối tượng ngâm vịnh hiện lên thật sinh động, có hồn, chiếc bánh bé nhỏ tưởng vô tri mà cũng có niềm tự hào, kiêu hãnh về vẻ đẹp xinh xắn, tinh khiết đáng yêu của mình. Đằng sau lớp nghĩa ấy còn là một lớp nghĩa ẩn dụ : Vẻ đẹp của chiếc bánh trôi cũng là hiện thân cho vẻ đẹp của người phụ nữ. Cụm từ “thân em” ta bắt gặp rất nhiều trong câu mở đầu của ca dao trữ tình than thân :
Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Hay :
Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Tuy nhiên, đa phần cụm từ “thân em” trong ca dao được sử dụng với ý nghĩa thân phận, còn “thân em” trong bài thơ Bánh trôi nước mang ý nghĩa tả thực về dáng vẻ, thân hình. Câu thơ gợi ra vẻ đẹp ngoại hình của người phụ nữ : làn da trắng trẻo, mịn màng, vóc dáng tròn trịa, đầy đặn, phúc hậu. Lối dùng đại từ nhân xưng “em” thể hiện sự khiêm nhường của nhân vật trữ tình. Câu thơ thứ nhất, như vậy, đằng sau hình ảnh bình dị quen thuộc của chiếc bánh trôi, chính là niềm tự hào, kiêu hãnh, một sự tự ý thức về vẻ đẹp của bản thân người phụ nữ.
Câu thơ thứ hai miêu tả việc luộc bánh : “Bảy nổi ba chìm với nước non”.
Chiếc bánh trôi sau khi được nặn bằng bột sẽ được đem luộc, và phải qua giai đoạn chìm rồi nổi trong nồi nước luộc rồi mới chín. Công việc luộc bánh được miêu tả rất chân thực. Nhưng đằng sau đó, nhà thơ muốn thể hiện nỗi vất vả, gian nan của người phụ nữ trong cuộc đời. Thành ngữ “bảy nổi ba chìm” mang nghĩa bóng là long đong, lận đận, vất vả ; còn “nước non” là biểu tượng cho cuộc đời rộng lớn. Đặt trong mối quan hệ với câu thơ thứ nhất, có thể thấy cuộc đời chẳng hề dành sự ưu ái, yêu thương đối với người phụ nữ. “Em” xinh đẹp, duyên dáng là thế, vậy mà “em” lại phải chịu biết bao vất vả, long đong, chìm nổi thăng trầm trong cuộc đời rộng lớn này. Câu thơ như một tiếng thở dài đầy chua xót của một con người ý thức rõ về vẻ đẹp, về giá trị của mình, vậy mà phải sống trong sự đối xử bất công của xã hội.
Câu thơ thứ ba nói về việc làm bánh : “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”.
Chiếc bánh ngon hay dở, rắn hay nát hoàn toàn là do bàn tay người nặn bánh quyết định. Nếu nặn khéo, cẩn thận, chiếc bánh sẽ ngon, ngược lại, nếu nặn ẩu, vụng về, chiếc bánh sẽ nát, không còn ngon nữa, sẽ kém chất lượng. Đằng sau hình ảnh tả thực này chính là lớp nghĩa về thân phận của người phụ nữ : cuộc đời của họ sung sướng hay bất hạnh hoàn toàn không phải do họ quyết định mà nằm trong “tay kẻ nặn”, tức là trong tay những con người khác. Dưới thời phong kiến xưa, người phụ nữ nào đâu có quyền gì. Trong xã hội nam quyền, người phụ nữ phải chấp nhận thân phận lệ thuộc vào người đàn ông. Biết bao tập tục, luật lệ áp đặt, trói buộc người phụ nữ, tạo nên tình trạng bất bình đẳng nam nữ.
Nhưng dù cuộc sống, số phận có hoàn toàn phụ thuộc ở “tay kẻ nặn”, thì người phụ nữ vẫn giữ trọn tấm lòng son sắt, thủy chung của mình. Câu thơ cuối là một sự khẳng định : “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.
Chiếc bánh trôi có thể rắn, nát do “tay kẻ nặn”, nhưng nhân bánh bằng đường vẫn luôn ngọt ngào – “tấm lòng son” của nó trước sau vẫn trọn vẹn, không bao giờ thay đổi. Thực ra, câu thơ kết bài nằm trong mối quan hệ chặt chẽ về ý nghĩa với câu thơ thứ ba bởi cặp từ có giá trị liên kết “mặc dầu” – “mà”. Cặp từ này thường được dùng với ý nghĩa nhượng bộ – tăng tiến, nên hàm ý của nó thường mang tính khẳng định. Với cặp từ này, câu thơ thứ ba không mang cảm hứng của một lời than thân, mà chỉ là tiền đề khẳng định “tấm lòng son”, tấm lòng thủy chung không bao giờ thay đổi của người phụ nữ được miêu tả ở câu thơ kết. Hai câu cuối đã đặt ra một sự đối lập : sự bấp bênh, vô định của số phận và sự kiên định không đổi thay của phẩm giá người phụ nữ – một bên số phận và sự kiên định không đổi thay của phẩm giá người phụ nữ – một bên không thể chủ động, một bên chủ động, bất biến. Từ “mà” là một quan hệ từ mang giá trị nhấn mạnh, khẳng định, làm nổi bật bản lĩnh, sự cứng cỏi trong nhân cách của người phụ nữ : Dù tất cả có thể thay đổi, nhưng tấm lòng son sắt thì tuyệt đối trọn vẹn.
Như vậy, qua hình ảnh chiếc bánh trôi, Hồ Xuân Hương đã khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp, phẩm giá của người phụ nữ, đồng thời cũng lên án xã hội phong kiến tàn nhẫn đã vùi dập họ, không cho họ cái quyền chủ động quyết định số phận của mình. Đây cũng là cảm hứng chung của nhiều tác phẩm văn học được viết trong giai đoạn này.
Đặc sắc về nghệ thuật
Trong bài thơ Bánh trôi nước, ngay câu mở đầu đã xuất hiện cụm từ “thân em”. Đây là cụm từ thường thấy xuất hiện trong ca dao, chủ yếu là nhân vật trữ tình là người phụ nữ. Tuy nhiên, đa phần những bài ca dao có cụm từ này thường mang chủ đề than thân, người phụ nữ chua xót, cay đắng cho số phận bất hạnh, bị cuộc đời rẻ rúng của mình ; đồng thời, đằng sau đó là thái độ ngậm ngùi, cam chịu.
Người phụ nữ trong ca dao tự ví mình như “hạt mưa sa”, “giếng giữa đàng”, “trái bần trôi”,… tự thấy thân phận mình quá thấp hèn, cuộc đời vô định, bấp bênh. Nhưng nhân vật “em” trong Bánh trôi nước không hề định than thân như vậy. Hai câu thơ đầu là niềm kiêu hãnh, tự hào của người phụ nữ, đồng thời thể hiện sự tự ý thức về thái độ đối xử bất công, vô lí của xã hội : “em” xinh đẹp, “em” duyên dáng là vậy, thế mà cuộc đời lại bắt “em” phải “bảy nổi ba chìm với nước non”, phải long đong lận đận. Và người phụ nữ, dẫu biết mình không thể tự quyết định được số phận của mình, vẫn bản lĩnh và cứng cỏi khẳng định tấm lòng thủy chung son sắt không gì làm thay đổi được của mình. Rõ ràng, hình tượng người phụ nữ trong Bánh trôi nước có bản lĩnh hơn, có ý thức sâu sắc về giá trị nhân phẩm và số phận của mình, khác hẳn với hình ảnh cam chịu của người phụ nữ trong bài ca dao than thân. Như vậy, bài thơ là sự kế thừa, tiếp nối của văn học dân gian, nhưng đã mang dấu ấn bản lĩnh, cá tính của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, đề cao người phụ nữ chứ không chỉ bộc lộ số phận đáng thương của họ. Bởi thế mà nhân vật trữ tình trong Bánh trôi nước hiện lên rất đẹp, cá tính, đáng trân trọng và cảm phục.
Bên cạnh đó, Hồ Xuân Hương đã thể hiện một tài năng sử dụng ngôn ngữ dân tộc điêu luyện, góp phần Việt hóa thể thơ Đường luật theo hướng dân gian hóa về nội dung và ngôn ngữ. Tuy cái vỏ hình thức là một thể thơ có xuất xứ từ Trung Quốc, vốn có những quy định khắt khe, chặt chẽ về niêm luật,… nhưng những từ ngữ sử dụng, lối diễn đạt trong bài thơ lại rất tự nhiên, rất gần gũi với ngôn ngữ đời thường của dân gian và văn học dân gian. Tác giả đã vận dụng sáng tạo cách xưng hô “thân em” vốn rất quen thuộc của người phụ nữ trong ca dao, đồng thời dùng thành ngữ dân gian “bảy nổi ba chìm” một cách nhuần nhuyễn, hợp lí. Bài thơ sử dụng khá nhiều phó từ như với, mặc dầu, mà, vẫn làm cho giọng điệu bài thơ rất tự nhiên, gần gũi với lối nói bình thường trong giao tiếp. Cả bài thơ hầu như chỉ sử dụng từ ngữ thuần Việt, có lẽ duy nhất chỉ có từ “thân” là từ mượn gốc Hán (nhưng từ này cũng đã được Việt hóa), chính vì vậy mà bài thơ rất trong sáng, bình dị, gợi cảm, dễ được tầng lớp bình dân ít học tiếp nhận. Có thể nói, qua ngòi bút rất tài hoa của Hồ Xuân Hương, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã trở nên thật điềm đạm, đậm đà tính dân tộc.
* Thông qua hình ảnh chiếc bánh trôi nước, Hồ Xuân Hương đã thể hiện niềm cảm thông sâu sắc với số phận chìm nổi của người phụ nữ, đồng thời cũng ngợi ca, trân trọng những phẩm chất cao đẹp của họ. Bài thơ toát lên một cảm hứng nhân văn rất cao cả.
Bài thơ có ngôn ngữ bình dị, trong sáng, vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ đời sống. Cách chọn đề tài độc đáo, thủ pháp nhân hóa và ẩn dụ được vận dụng rất khéo léo làm nổi bật hai lớp nghĩa song song : một lớp nghĩa vịnh sự vật, một lớp nghĩa nói về một tầng lớp người (phụ nữ) trong xã hội phong kiến xưa. Chính vì vậy trong rất nhiều những tác phẩm viết về người phụ nữ ở giai đoạn này, bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương vẫn có một vị trí riêng, mang một phong cách độc đáo.
Em là ai ? Cô gái hay nàng tiên
Em có tuổi hay không có tuổi
Mái tóc em đây, hay là mây là suối
Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm giông
Thịt da em hay là sắt là đồng ?
Cho tôi hôn bàn chán em lạnh ngắt
Cho tôi nâng bàn tay em nắm chặt
Ôi bàn tay như đôi lá còn xanh
Trên mình em đau đớn cả thân cành
Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng
Em đã sống lại rồi, em đã sống!
Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung
Không giết được em, người con gái anh hùng!
Ôi trái tim em trái tim vĩ đại
Còn một giọt máu tươi còn đập mãi
Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời
Cho quê hương em. Cho Tổ quốc, loài người!
(Người con gái Việt Nam, Tố Hữu, Gió lộng, NXB Văn học, 1961)
Câu 1: Đoạn trích trên được sáng tác vào giai đoạn văn học nào?
Câu 2: Hình tượng nhân vật trung tâm của đoạn thơ là ai? Hình tượng nhân vật ấy được tác giả thế hiện với thái độ gì?
Câu 3: Anh (chị) hãy chỉ ra và phân tích giá trị của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng ở đoạn thơ đầu.
Câu 4: Trong khoảng từ 5 – 7 dòng, trình bày suy nghĩ của anh chị về vấn đề lẽ sống của tuối trẻ được đặt ra trong khổ thơ cuối cùng của đoạn trích .
Phần II. Làm văn (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm): Bằng đoạn văn khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của anh (chị) về bài học mà người cha muốn nói với con trong bài thơ sau:
Chẳng ai muốn làm hành khất
Tội trời đày ở nhân gian
Con không được cười giễu họ
Dù họ hôi hám úa tàn
Nhà mình sát đường họ đến
Có cho thì có là bao
Con phải răn dạy nó đi
Nếu không thì con đem bán
Mình tạm gọi là no ấm
Ai biết cơ trời vần xoay
Lòng tốt gửi vào thiên hạ
Biết đâu nuôi bố sau này…
(Dặn con, Trần Nhuận Minh)
Câu 2 (5 điểm):
Có ý kiến cho rằng: Sông Hương là bản tình ca ca ngợi về thiên nhiên và văn hóa xứ Huế. Qua phân tích tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường), hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.