CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (Nguyễn Minh Châu)
Không có phản hồi
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (Nguyễn Minh Châu)
Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) xuất thân từ một gia đình nông dân ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Năm 1944, Nguyễn Minh Châu học Trường Sĩ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến năm 1958, Nguyễn Minh Châu công tác và chiến đấu ở Sư đoàn 320, bắt đầu viết văn từ năm 1954. Ông rất am hiểu đời sống và tâm hồi người chiến sĩ, thực tế khắc nghiệt và hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Từ năm 1980 trở đi, ông đi đầu trong khuynh hướng đổi mới văn học sau chiến tranh: nghĩ và viết nhiều về “đời thường”, về những vấn đề bức xúc đằng sau những chiến công, những vấn đề xã hội, về số phận và phẩm cách con người trong thực trạng phức tạp của đất nước.
Sau năm 1975, đặc biệt từ sau năm 1985, trong văn học Việt Nam hình thành khuynh hướng văn xuôi mới so với trước đây mà giới nghiên cứu gọi là “văn xuôi đời thường” để phân biệt với xu hướng “văn xuôi sử thi”. Gọi là “văn xuôi sử thi” vì, giống như các sử thi anh hùng ca, xu hướng này mô tả con người gắn liền với sự nghiệp toàn dân tộc, sự nghiệp chung của tập thể. Xu hướng văn xuôi đời thường lại chú trọng quan sát, mô tả, nhận diện con người trong cuộc sống riêng tư, những mảng tối, còn khuất lấp của thân phận, tính cách con người mà trước đây, văn học thời chiến chưa có nhiều điều kiện khám phá. Bản thân Nguyễn Minh Châu trong các sáng tác thời 1975 cũng có xu hướng đi tìm con người sử thi, con người cộng đồng (truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng là một ví dụ quen thuộc). Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa phản ánh sự thay đổi không những về đề tài mà còn về quan điểm thẩm mĩ của nhà văn. Nếu trước 1975, quan điểm thẩm mĩ của nhà văn có thể diễn đạt bằng công thức cái đẹp là cái cao cả, cái anh hùng thì sau năm 1975, cái đẹp là cái thường ngày, cái đẹp là chính cuộc sống.
Nghệ thuật truyện ngắn có liên hệ mật thiết với tình huống truyện. Theo Bùi Việt Thắng, trong Bình luận truyện ngắn (NXB Văn học, Hà Nội, 1999), có thể tóm tắt bản chất của tình huống như sau:
Tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa là kiểu tình huống luận đề. Một nghệ sĩ nhiếp ảnh dự định đi chụp những cảnh biển thật đẹp để đưa vào tờ lịch nhưng đã gặp một cảnh không đẹp chút nào – một phụ nữ bị chồng thường xuyên hành hạ dã man của người chồng vũ phu đó. Luận đề của truyện là nhà văn không nên nhìn cuộc sống đơn giản, một chiều mà cần thâm nhập vào bản chất con người, thâm nhập vào số phận riêng tư của con người để thấy hết tính chất phức tạp của cuộc sống.
Có thể phân tích theo kết cấu truyện. Truyện có ba phần chính, được phân cách bởi các dấu sao.
Sự đắc ý của Phùng khi chụp được cảnh mà anh coi là “trời cho”: “Trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ […] toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp chặt vào”. “Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Không cần lựa chọn xê dịch nữa, anh “bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim”, “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại” với cảm giác hạnh phúc tràn ngập tâm hồn. Anh yên tâm ngày mai có thể lên tàu trở về. Anh lại nhận thức lần nữa chân lý nghệ thuật: cái đẹp là cái đạo đức, mĩ và thiện thống nhất. Câu chuyện đến đây vẫn chưa có gì đặc biệt, chưa có đột biến.
Tình huống truyện diễn biến rất nhanh dường như kịp thời cứu câu chuyện khỏi sự nhàm chán có khả năng xảy ra. “Ngay lúc ấy”, tức là ngay vào lúc Phùng thỏa mãn với hình ảnh anh coi là trời cho thì một biến cố đảo lộn tất cả. “Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ chúng tôi đứng. Một người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền”. Hai vợ chồng thuyền chài lên bờ, người đàn ông và người đàn bà sửa soạn cho một sự việc rất ngạc nhiên. “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhua họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Phản ứng của Phùng trước sự việc quá bất ngờ đó là dễ hiểu: anh vốn là người lính đánh Mĩ. “Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất nhào tới”. Nhưng thằng Phác, cậu bé mà anh quen, đã kịp chạy đến can thiệp, giật chiếc dây lưng quật vào ngực lão già. Rồi, “Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát. Rồi lão lẳng lặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về thuyền […]. Thế rồi bất ngờ người đàn bà buông đứa trẻ ra, đi thật nhanh ra khỏi bãi xe tăng hỏng, đuổi theo lão đàn ông. Cả hai người lại trở về chiếc thuyền”. Có cảm giác như gặp một truyện cổ quái đản. Tình huống đột ngột xuất hiện khiến đảo lộn mọi suy nghĩ và quan niệm thông thường. Cả người đánh lẫn người bị đánh đều trở lại thuyền thật bình thản khiến Phùng và cậu bé Phác – con của hai vợ chồng kia – ngơ ngác. Nếu nói bằng ngôn ngữ kịch thì chỗ này giống như thắt nút. Thắt nút trong tâm hồn của người kể chuyện, đẩy xung đột quan niệm trong chính người kể đến cao trào.
Lần thứ hai, Phùng – người kể chuyện – lại chứng kiến màn hành hạ vợ của lão chồng vũ phu và anh xông vào can thiệp, đã đánhlão chồng ra trò (đoạn này bị lược bỏ trong đoạn trích). Nhưng Phùng vẫn chưa hiểu bản chất câu chuyện là ở đâu. Anh ta vẫn nghĩ: “Tôi tin là nếu chiếc Pra-ti-ca trung thành với tôi thì phen này tôi có thể đánh ngã bất kì một bức ảnh mô tả phong cảnh biển nên thơ nào từ trước (câu này cũng bị lược trong đoạn trích). Chỉ đến khi ngồi ở tòa án nghe phụ nữ ấy nói, Phùng mới hiểu bản chất câu chuyện. Đại diện tòa án: “Ba ngày một trân nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không cso một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu! Chị nghĩ thế nào?”. Nhưng chị ta trả lời: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”. Câu nói khiến Phùng tự nhiên cảm thấy không khí trở nên ngột ngạt khó thở. Như để giải thích, chị ta nói tiếp: “Chị cám ơn các chú! – Người đàn bà đột nhiên thốt lên bằng giọng khẩn thiết – Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt quá, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”. Rồi câu chuyện về cuộc đời người đàn bà như những thước phim quay chậm dần dần hé mở thân phận của người phụ nữ xấu xí vùng biển lấy một gã trai cục tính nhưng khi ấy hắn không bao giờ đánh đập vợ. Thuyền chật, mà con cái nhiều, nỗi khổ đã khiến lão chồng vũ phu đánh vợ như là cách trút nỗi khổ lên đầu vợ. “Sau ngày con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…cho tôi lên bờ mà đánh”. Càng ngày càng thấy rõ nên không nhìn cuộc sống một cách đơn giản. Phùng nghĩ có thể lão chồng độc ác vì đã đi lính ngụy chăng. Nhưng không, lão chưa hề đi lính ngụy, thậm chí vì trốn lính nên nghèo túng. Vấn đề là một gia đình sống trên biển rất cần một người đàn ông. “Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó”. Nhưng cũng không nên nghĩ cuộc sống của người phụ nữ toàn một màu đen. Chị ta nói: “Ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. Như không tin, Phùng hỏi: “Cả đời chị có một lúc nào thật vui không?”. Và câu trả lời có thể lại cũng khiến anh ngỡ ngàng: “Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Những người quen nghĩ về bình đẳng nam nữ có thể nghĩ đơn giản là giải quyết cho người phụ nữ bỏ gã chồng vũ phu là xong vấn đề. Nhưng nào ngờ được cuộc sống của họ có nhiều phương diện ẩn khuất mà cái nhìn hời hợt khó phát hiện. Chuyến đi săn tìm ảnh đẹp để in vào lịch của Phùng biến thành chuyến đi phát hiện những chân lý của “cuộc sống đời thường”. Không yên tâm với những hình ảnh đã chụp về hình tượng chiếc thuyền ngoài xa, anh khoác chiếc máy ảnh đi lang thang trong đêm. Sự phong phú, đa dạng của cuộc sống thường ngày với tất cả mọi sắc thái của nó là điều bất ngờ lớn nhất đối với người nghệ sĩ nhiếp ảnh. Anh đã chụp được tấm ảnh tuyệt đẹp của chiếc thuyền ngoài xa – khi ở khoảng cách xa – nhưng lại phát hiện ra bên trong chiếc thuyền những bi kịch của cuộc đời khi chiếc thuyền đến gần. Nhiều nhà phê bình đã cho rằng đây là hình ảnh tượng trưng, có ý nghĩa triết lý. Khi chiếc thuyền ở xa, chỉ thấy cái đẹp. Nhưng khi chiếc thuyền tiến lại gần, tức là ta có dịp nhìn sâu vào cuộc sống, những mặt khuất lấp, bi kịch của nó mới bộc lộ. Tình huống chứng kiến lão chồng vũ phu đánh vợ đã mở ra một triết lý về sứ mệnh quan trọng của nghệ thuật đi vào khám phá những đề tài, những vấn đề thân phận của con người vốn ẩn kín sau những vẻ ngoài hào nhoáng. Cuộc sống quanh ta đau phải đã hết những số phận đắng cay. Nói cách khác, xu hướng đời thường cần được tăng cường.
Phùng vốn là một chiến sĩ tham gia chiến trah chống Mĩ. Nhưng tại sao nhà văn lại muốn nhân vật phóng viên ảnh này vốn là bộ đội – một người đã chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước? Có thể nghĩ rằng, tình huống truyện chỉ gây ngỡ ngàng, bất ngờ nhất cho môt người xuất thân là lính? Một người lính có tinh thần chính nghĩa. Tính cách người lính bộc lộ rõ khi anh cả hai lần chứng kiến cảnh lão đàn ông vũ phu đánh vợ đều xông vào can thiệp, khiến cho từ đấy bản chất chuyện gã đàn ông đánh vợ bộc lộ. Nếu không có chuyện Phùng đánh lại lão đàn ông thì tòa án cũng không gọi người vợ thường chịu đòn đó ra để giúp đỡ. Nhưng cũng có thể có một lí do khác nữa: một người lính thì dễ khi anh chứng kiến những tấn bi kịch vẫn âm thầm ẩn náu bên trong những con thuyền nhìn từ xa vốn rất đẹp đẽ và thơ mộng kia. Nếu ta suy diễn như vậy là đúng thì vấn đề của truyện đặt ra là cách mạng phải tiếp tục làm nhiều hơn nữa để đem lại cuộc sống hạnh phúc cho con người.
Nhân vật này không có tên, cũng như người chồng chỉ được gọi là “lão đàn ông”. Có thể dụng ý của tác giả là những số phận như thế có thể gặp dễ dàng khắp nơi. Trong cái nhìn của người kể chuyện: “Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Về ngoại hình, như chính người đàn bà tự kể về mình đã nói: “Từ nhỏ tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa”. Một ngoại hình như thế khó hy vọng lấy được người chồng ưng ý. Bản thân việc lấy chồng của chị cũng không phải là việc bình thường ở cái thời xưa cũ ấy. Nhưng người chồng thời còn trẻ hiền lành: “Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới. Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giwof đánh đập tôi”. Vậy đã rõ là hoàn cảnh đã thay đổi tính cách. Vì nghèo khổ, vì đông con, vì không thể bỏ nghề đã quen bao đời nên họ bám thuyền. Và những trận đòn diễn ra vì một lý do không liên quan gì đến chị “bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu… Giá mà lão uống rượu…thì tôi còn đỡ khổ… Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Cách trả lời của người đàn bà trước những ngạc nhiên khó hiểu của Phùng là rất đơn giản: “Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…”. Trả lời câu hỏi của Đẩu – người cán bộ tòa án: “Trên chiếc thuyền phải có một người đàn ông…dù hắn man rợ, tàn bạo?” là một câu khẳng định: “Phải – người đàn bà đáp – cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?”. Những câu trả lời như những lời tâm sự của người đàn bà khiến cho Phùng đi hết từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác. “Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có một người đàn ông để chèo chống mỗi khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! – lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười – vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận vui vẻ”. Người trong gia đình thương người đàn bà và muốn giải thoát cho mụ chính là đứa con trai tên Phác. Nhưng người mẹ sợ có chuyện không hay nên đã gửi cậu về cho ông ngoại nuôi. Chính bà cũng không muốn con can thiệp vào chuyện bố đánh mẹ. Đoạn văn trên đây đa nghĩa, có thể phân tích từ nhiều góc độ. Từ góc độ bình đẳng giới, ta thấy bản thân người phụ nữ, do nhận thức hạn chế, cũng tự chấp nhận sự thiệt thòi, gánh chịu nỗi khổ, không biết đến quyền sống cho riêng mình. Từ góc độ nghề nghiệp, lại thấy là những nghề nặng nhọc, nguy hiểm như hàng chài, rất cần có đàn ông với sức mạnh cơ bắp để chèo chống khi có phong ba, bão tố như là sự phân công lao động tự nhiên. Chừng nòa vẫn còn nghề nghiệp như thế thì chừng ấy, những gã đàn ông vẫn có quyền hành hạ phụ nữ mà người phụ nữ vẫn chấp sẵn sàng chấp nhận. Có thể đây là thực tế tồn tại đã bao đời trong xã hội ta, muốn giải phóng người phụ nữ, muốn đem lại bình đẳng nam nữ thì không chỉ có tuyên truyền mà cần có những biện pháp thực tế về kinh tế, luật pháp thì người phụ nữ mới thực sự được tôn trọng trong gia đình. Nếu không thì bản thân người phụ nữ cũng không muốn được “giải phóng”. Trong đầu của người chánh án huyện cso “một cái gì vừa mới vỡ ra”, một cách hiểu mới bất chợt hay một cách nghĩ cũ bị lung lay? Có lẽ là cả hai. Nhân vật người phụ nữ tự kể về mình nên có cái chân thực, tự nhiên, không thể tin được.
Nhân vật gã đàn ông – người chồng – được người kể tả lại: “Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà”. Người đàn ông lộ rõ một tính cách hoang dã, đầy bản năng, dữ dằn nhưng cũng từ hắn, toát ra sức mạnh vững chãi, một chỗ dựa tin cậy của người đàn ông (dân) làng chài. Những bước đi và tấm lưng của hắn đã nói lên điều đó. Cảnh lão hành hạ người vợ và vẻ nhẫn nại, cam chịu của người vợ gây ấn tượng sửng sốt cho Phùng. Thông thường, chuyện đánh đập như thế này là bột phát, thường diễn ra ngay tại chỗ; đằng này, lão lại dẫn vợ lên bờ, chọn chỗ kín đáo sau chiếc xe rà phá mìn bỏ lại để đánh vợ: “Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng ròi lại buông thõng xuống, đưa cặp mặt nhìn xuống chân. Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những diều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lủa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Người đàn bà với vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu môt tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Đánh xong, lão thản nhiên trở về thuyền. “Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh tay cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát. Rồi lão lẳng lặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về thuyền. Không hề quay mặt nhìn lại, chỉ có tảng lưng khum khum và vạm vỡ càng có vẻ cúi thấp hơn, nom lão như một con gấu đang đi tìm nguồn nước uống, hai bàn chân chữ bát để lại những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang vắng”.Tấm lưng vạm vỡ và bước chân đi vững chãi của hắn lại được người kể chuyện chú ý. Lần này, người kể chuyện so sánh hắn với con gấu. Trong con người này, có hai mặt trái ngược nhau cùng tồn tại. Cái bản năng hoang dã đem lại đau khổ cho người vợ, nhưng sức vóc vững chãi của hắn lai có thể chở che cho cả gia đình. Dáng vẻ người đàn bà chạy theo hắn lên thuyền thật đặc tả “bất ngờ người đàn bà buông đứa trẻ ra, đi thật nhanh ra khỏi bãi xe tăng hỏng, đuổi theo lão đàn ông. Cả hai người lại trở về chiếc thuyền”. Chuyện đánh đập vợ như cơm bữa ấy tạo nên tấn bi kịch căng thẳng trong gia đình. Đến nỗi thằng bé Phác (rất có thể tên nhân vật có nghĩa ẩn dụ: Phác ở đây là chất phác, phác thực cũng như Phùng có nghĩa là sẽ gặp) sẵn sàng đánh bố để cứu mẹ. Người mẹ cho biết “vì sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối với bố nó, mụ đã phải gửi nó lên rừng nhờ bố mình nuôi đã nửa năm nay. Ở với ông ngoại, thằng bé sướng hơn ở trên thuyền với bố mẹ. Nhưng hễ rời ra là nó trốn về. Thằng bé tuyên bố với các bác xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Cậu còn nhỏ, chưa hiểu hết cuộc sống phức tạp với những mạch ngầm nên phản ứng như thế không có gì khó hiểu. Đây cũng là một bi kịch nữa của cuộc sống. Đứa con trai căm thù bố vì bố đã hành hạ mẹ nhưng chính mẹ lại không muốn đứa con giải thoát cho mình. Nhìn chung, các nhân vật đều nói lên một nghịch lý trớ trêu trong cuộc sống. Gã chồng vũ phu vẫn đánh vợ khi thấy khổ nhưng rồi họ vẫn chung sống với nhau, vẫn sinh với nhau một lũ con; người vợ vẫn câm lặng hàng ngày, chấp nhận những trận đồn mà không kêu ca, không bỏ trốn. Nghịch lý như thế rất khó giải thích nếu ta có cái nhìn cuộc sống hời hợt. Câu chuyện được khám phá đã ám ảnh người kể chuyện – nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Kết luận là một thông điệp nghệ thuật rất sâu sắc, đầy tính triết lí. Mỗi lần ngắm bức ảnh về chiếc thuyền ngoài xa, anh lại như mường tượng thấy người đàn bà thân phận thật trớ trêu: “Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất chắc chắn hòa lẫn trong đám đông…”.
Ngôn ngữ của người vợ thể hiện sự nhẫn nại, cam chịu của ngươi phụ nữ đã bao năm quen với bạo lực gia đình. Đây là một người lao động, quen nói thật, nói thẳng ý nghĩ. Vì thế, không phải dễ nghe đối với Phùng và Đẩu, người chánh án. TRẦN NHO THÌN Phần I. Đọc hiểu (3 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: Em là ai ? Cô gái hay nàng tiên Thịt da em hay là sắt là đồng ? Cho tôi hôn bàn chán em lạnh ngắt Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung Ôi trái tim em trái tim vĩ đại Còn một giọt máu tươi còn đập mãi Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời Cho quê hương em. Cho Tổ quốc, loài người! (Người con gái Việt Nam, Tố Hữu, Gió lộng, NXB Văn học, 1961) Câu 1: Đoạn trích trên được sáng tác vào giai đoạn văn học nào? Câu 2: Hình tượng nhân vật trung tâm của đoạn thơ là ai? Hình tượng nhân vật ấy được tác giả thế hiện với thái độ gì? Câu 3: Anh (chị) hãy chỉ ra và phân tích giá trị của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng ở đoạn thơ đầu. Câu 4: Trong khoảng từ 5 – 7 dòng, trình bày suy nghĩ của anh chị về vấn đề lẽ sống của tuối trẻ được đặt ra trong khổ thơ cuối cùng của đoạn trích . Phần II. Làm văn (7 điểm) Câu 1 (2 điểm): Bằng đoạn văn khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của anh (chị) về bài học mà người cha muốn nói với con trong bài thơ sau: Chẳng ai muốn làm hành khất Tội trời đày ở nhân gian Con không được cười giễu họ Dù họ hôi hám úa tàn Nhà mình sát đường họ đến Có cho thì có là bao Con phải răn dạy nó đi Nếu không thì con đem bán Mình tạm gọi là no ấm Ai biết cơ trời vần xoay Lòng tốt gửi vào thiên hạ Biết đâu nuôi bố sau này… (Dặn con, Trần Nhuận Minh) Câu 2 (5 điểm): Có ý kiến cho rằng: Sông Hương là bản tình ca ca ngợi về thiên nhiên và văn hóa xứ Huế. Qua phân tích tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường), hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. |
THẦY KHƯƠNG TRÊN FACEBOOK
|