NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
Không có phản hồi
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (Trích)
Nguyễn Tuân (1919 –1987) sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn. Quê ông ở làng Mọc, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Nguyễn Tuân là nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông có một vị trí quan trọng và đóng góp không nhỏ đổi với văn học Việt Nam hiện đại Người lái đò Sông Đà là bài tùy bút được in trong tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân, xuất bản lần đầu năm 1960. Thiên tùy bút này thể hiện rõ nét đặc sắc của phong cách Nguyễn Tuân. Việc lựa chọn đề tài viết về Sông Đà thời điểm đó cũng là một bản lĩnh, vì hồi ấy từ Quynh Nhai sang Than Uyên chưa có đường sá thuận lợi. Nhà văn phải xin một con ngựa và một dân quân, đi theo đường mòn đến ba ngày không gặp người đi ngược.
Nguyễn Tuân thường chọn những đề tài độc đáo, khác thường, ít được đề cập tới trong văn học sáng tác trước ông. Sông Đà cùng với vùng núi rừng hùng vĩ miền Tây Bắc nước ta và con người nơi đây đã gợi cảm hứng đặc biệt cho nhà văn trong những chuyến đi khoảng 1958-1960. Mở đầu thiên bút kí, nhà văn cho biết: “Tôi cũng tự nhận thấy mình là một người đang tìm vàng ở quanh Sông Đà, đi tìm cái thứ vàng của màu sắc sông núi Tây Bắc, và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa tươi vui và vững bền”.
Nguyễn Tuân viết trong thiên bút ký: “Con Sông Đà thật dữ thật lớn và lớn hơn nữa là những người lao động chở đò kéo đò thắng cái thiên nhiên không bình thường của một con sông Tây Bắc hiểm trở”. Người lái đò là nhân vật trung tâm của bút ký. Về phong cách, Nguyễn Tuân có thiên hướng chọn những đối tượng phi thường, tìm cái đẹp trong cái phi thường, khác thường. Gợi cảm hứng đặc biệt cho Nguyễn Tuân ở các đối tượng miêu tả đặc biệt này là tính chất đỉnh cao của chúng. Những mẫu người được nhà văn ca ngợi thường là các nghệ sĩ bậc thầy, các quán quân kỷ lục đỉnh cao trong lĩnh vực sống và hoạt động riêng của họ. Ví dụ, trong chuyện lái thuyền vượt thác trên sông thì người lái đò sông Đà đạt được tài nghệ của bậc quán quân, các nghệ sĩ bậc thầy tưởng như không một ai cáo thể điêu luyện, tài ba hơn họ được. Trong phần tùy bút trước đoạn trích, Nguyễn Tuân kể vè thân thế của người lái đò: “Trên dòng Sông Đà, ông xuôi ông ngược hơn một trăm lần, chính tay giữ lái độ sáu chục lần cho những chuyến thuyền then đuôi én sáu chèo… Sông Đà, đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Người lái đò này đã quen thuộc với hiểm nguy của ghềnh thác đến nỗi “cũng như người Mèo (người Mông) kêu mỏi chân khi giẫm lên đồng bằng thiếu dốc thiếu đèo, ông bảo rằng: “Chạy thuyền trên khúc sông không có thác, nó dễ dại tay dại chân và buồn ngủ”. Một sự giới thiệu rất hấp dẫn, rất gợi về chân dung người lái đò Sông Đà.
Nguyễn Tuân cũng là nghệ sĩ bậc thầy tỏng thể tùy bút, một thể loại văn học mà ông chọn lựa cho cả đời viết văn của mình. Nếu tùy bút là kí sự, là thể loại có tính chất ghi chép bao gồm cả tư liệu khảo sát, nghiên cứu về đối tượng thì các bút kí trong Sông Đà của ông là quán quân, đỉnh cao trong sự phong phú, bề bộn, ngổn ngang của tư liệu. Nếu tùy bút cho phép sự tự do trong các liên tưởng, so sánh, trong cái nhìn đa diện, nhiều chiều, cái nhìn có tính chất khảo cứu tỉ mỉ về đối tượng, cho phép những chân trời rộng mở nhất của sáng tạo từ ngữ mới, cách diedatj mới lạ, không lặp lại thì quả Nguyễn Tuân là bậc thầy có một không hai của lối văn tùy bút. Nguyễn Tuân đã dựng cho mình một lâu đài tùy bút đặc sắc và là chúa tể của tòa lâu đài đó.
Như tên gọi của thiên tùy bút đã ghi rõ, nhân vật chính của tác phẩm này là người lái đò Sông Đà. Nguyễn Tuân tận dụng thế mạnh của thể văn tùy bút mà ông tạo ra để giới thiệu người lái đò – nghệ sĩ bậc thầy, quán quân đỉnh cao trong nghề chèo lái, vượt thác ghềnh. Đồng thời, ông cũng chứng tỏ tài nghệ tùy bút bậc thầy của mình khi đặc tả tài nghệ của người lái đò. Nhưng để cảm nhận được tài nghệ tuyệt vời của Người lái đò Sông Đà thì phải đặt nghề chèo lái này vào một hiện thực Sông Đà dữ dội, nghiệt ngã tưởng như cũng độc nhất vô nhị trên đời.
Chở đò dọc trên Sông Đà là một nghề như dành riêng cho những ai có bản lĩnh, có ý chí, có tài năng. Đừng hy vọng tìm sự thanh thản, yên ổn trên dòng sông, nơi người lái đò hàng ngày phải đương đầu với những “cuộc thủy chiến”, tại “mặt trận Sông Đà”, nơi thác nước và đá luôn luôn phối hợp với nhau để tiêu diệt những con thuyền thiếu tay lái bản lĩnh, tài ba. Nguyễn Tuân đặc tả, cực tả sự dữ dội, hiểm ác của Sông Đà bằng một tổng thể các thủ pháp nghệ thuật khác nhau. Nhà văn quan sát dòng sông từ nhiều góc độ khác nhau. Ông đi dọc Sông Đà, tận mắt quan sát những đoạn thác ghềnh nguy hiểm nhất, ông đã bay lên trên máy bay ngang quãng Sông Đà nhìn xuống và cũng muốn “đưa ống quay phim lên tàu bay “để” phản ánh lên cái dữ tợn và cái lớn của Sông, của thác Sông Đà”; có những cảnh ông dựng lại theo lời kể của người lái đò. Không phải nhà văn không nhìn thấy vẻ thơ mộng của con sông này, chính ông viết đây là con sông “hung bạo và trữ tình”, nhưng ông vẫn nhấn mạnhnhiều hơn đến khía cạnh “hung bạo” của nó. Đây là thủ pháp đối lập trong văn học. Để cảm nhận hết tầm vóc “nghệ sĩ” của người lái đò Sông Đà dũng cảm, cần thấy được sự dữ dội của dòng sông. Đối thủ càng cao cường thì chiến thắng càng vẻ vang. Để tác động mạnh vào trí tưởng tượng của người đọc, Nguyễn Tuân vận dụng thủ pháp nghe và nhìn, đặc biệt là nhìn và quan sát. Tiếng gầm réo của thác nước Sông Đà rất đa dạng, tùy theo mỗi khúc sông. Nghe tiếng gầm réo này, ta có cảm tưởng như đây là một con người với đủ cung bậc sắc thái của tình cảm. “Tiếng nước thác nghe như oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Có lúc, con sông gầm thét, cuồng nộ “như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Một sự liên tưởng bất ngờ mà hợp lý: thử tưởng tượng khi có ngàn con trâu mộng đang bị bỏng giữa rừng tre nứa cháy nổ lốp đốp thì sức mạnh phá hoại, sự hung tợn của chúng đến mức đáng sợ như thế nào. Quan sát Sông Đà từ nhiều góc độ khác nhau là một nét đặc biệt của bút pháp Nguyễn Tuân. Nhà văn công phu tìm được một điểm nhìn thật độc đáo và bất ngờ. Ví dụ: Ông tả “cái hút nước” ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Những cái hút nước “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Thật đáng sợ vì cả những bè gỗ rừng cũng bị cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống, nói gì đến những con thuyền mong manh bé nhỏ sơ ý. Để truyền lại cảm giác lạ lùng sợ hãi cho bạn đọc, nhà văn tưởng tượng một nhà văn quay phim ngồi dưới đáy giếng hướng máy quay phim ngược lên miệng giếng – cái hút nước đó mà quay cảnh cả khối nước trong như pha lê đang ập xuống người quay phim. Con Sông Đà về mùa xuân có những nét trữ tình, gợi cảm. “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Tuy vậy, đối với người lái đò, không thể nói nhiều đến sự mơ mộng, trữ tình. Sông Đà hung dữ, nguy hiểm hơn một chú ngựa bất kham nhiều lần. Người lái đò Sông Đà đã khuất phục được thác dữ bằng tài nghệ siêu việt của mình. Thác vách đá bày “thạch trận” trên sông. “Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyên đơn độc không còn biết lùi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn”. Nhà văn cũng cực tả cuộc chiến đấu giáp lá cà giữa con sông và người lái đò.
Nguyễn Tuân viết: “Cuộc sống của Người lái đò Sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Chính vì thế, ông viết Sông Đà. Tính chất dữ dội, bạo liệt của Sông Đà là do sự phối hợp giữa những thác nước cheo leo hiểm trở và các tảng đá ngầm đá nổi tạo thành. Cuộc chiến đấu của người lái đò trước hết và chủ yếu là phá được “binh pháp của thần sông thần đá”, thực chất là nắm vững quy luật cấu tạo và vận hành của luồng thạch, thác đá. Trận chiến đấu của thác nước và đá (mà tác giả gọi là thạch trận) được miêu tả trong thiên tùy bút này giống như một trận chiến được bài trí rất công phu, hiểm độc. “Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền”. Để vượt qua ba vòng vây này, đòi hỏi sự bình tĩnh, tỉnh táo, sáng suốt và cả khả năng chịu trận. Có những lúc sóng tung cao, đánh mạnh vào hạ bộ người lái đò khiến ông nảy đom đóm mắt . (Tham khảo thêm để hiểu rõ phong cách tùy bút của Nguyễn Tuân: chi tiết Người lái đò Sông Đà phải để truồng khi lái đò cũng là một phát hiện kỳ thú của Nguyễn Tuân, nhưng không được đưa vào đoạn trích. Chi tiết có phần dung tục, đầy hài hước nhưng sự thật này có vai trò thay đổi không khí căng thẳng của câu chuyện kể về các thác nước: “Những chị Mường Phù Yên gần bờ Sông Đà thường phàn nàn về người lái đò Lai Châu hay cởi truồng. Người lái đò Sông Đà hay mặc áo mà không mặc quần. Có khi muốn đóng khố nhưng cũng không đóng được. Cát Sông Đà rất hay ăn da người chở đò. Hễ mặc quần hoặc đóng khố là cát chui ngay vào bẹn rồi loét da”). Nhưng sự bình tĩnh, tỉnh táo, phong độ của người lái đò đã giúp anh vượt qua bốn cửa tử để đến một cửa sinh của thạch trận ở vòng vây thứ nhất. Ở các vòng vây thứ hai và thứ ba, thế trận của thác và đá ở mỗi vòng vây đều có nét riêng, không gặp lại. Ví dụ như cửa sinh ở vòng vây thứ nhất nằm lập lờ phái tả ngạn sông thì cửa sinh ở vòng vây thứ hai lại nằm ở phía hữu ngạn sông, đến chặng thứ ba, cả hai bên tả, hữu ngạn sông đều là cửa tử và cửa sinh lại nằm ở chính giữa sông. Tựa hồ như dòng sông cũng như một kẻ xảo quyệt, thâm hiểm, đặt bẫy tiêu diệt người lái đò, hay nói bằng ngôn ngữ của tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, bày thế trận nhử quân địch vào để tiêu diệt. Nếu thuyền lao đúng vào cửa sinh thì người lái đò chiến thắng và ngược lại thì sự thất bại đó có thể trả bằng sinh mạng. Người lái đò “có tự do, vì người lái đò ấy đã năm được cái quy luật tất yếu của dòng nước Sông Đà”, người lái đò luôn chiến thắng. Và cũng giống như các nghệ sĩ chân chính, các quán quân vô địch, các tài nghệ bậc thầy, người lái đò không xem nghề chở đò Sông Đà của mình là việc làm phi phàm. Với họ, đây là công việc hàng ngày. Sau chặng đường vượt thác ghềnh, đến quãng sông nước thanh bình, những nghệ sĩ lái đò ấy chỉ nói về những chuyện cuộc sống hàng ngày. “Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái khác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ”. Sự thanh thản sau những thử thách sống còn cũng là một khía cạnh nghệ sĩ, quán quân của người lái đò. Nếu ta liên tưởng đến bài thơ Tây Tiến, thấy ngay là thủ pháp tương phản cũng được tác giả bút ký sử dụng thành công. “Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, toàn bàn tán về cá anh vũ cá đầm xanh…”.
Sông Đà cũng có lúc thơ mộng, êm đềm. Sau mùa nước lũ, cái mùa mà nước sông đục ngầu sẽ đến mùa xuân, dòng sông xanh màu ngọc bích quý phái chứ không xanh “màu xanh canh hến” của sông Gâm, sông Lô. Bằng thực tế quan sát, nhà văn cực lực bác bỏ tên gọi của người Pháp áp đặt cho Sông Đà là “dòng sông Đen”. Với nhà văn, dù thế nào đi nữa, dù sông Đà dễ thay đổi tính nết, dòng sông này vẫn luôn luôn “gợi cảm”, là cố nhân đối với ông. Những trang viết về vẻ đẹp nguyên sơ, cổ kính của Sông Đà thuộc loại những trang viết tài hoa nhất, đậm chất thơ nhất trong bài tùy bút: “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
Thể tùy bút cho phép một sự tự do rộng rãi nhất trong việc bao quát tư liệu và tự do độc thoại của tác giả. Trong phạm vi tư liệu, Nguyễn Tuân có lúc vì trung thành với nguyên tắc “đỉnh cao” của ông mà không ngần ngại đi tới cùng kiệt của lối văn tư liệu khảo cứu điều tra, đến nỗi có cảm tưởng là thiên tùy bút này, không có một nhà văn nào có thể tìm tòi được tư liệu nào hơn ông khi khảo về Sông Đà. Nhưng cũng chính vì vậy mà nhiều lúc đọc ông, người đọc có cảm tưởng “sốt ruột” vì tư liệu bề bộn. Thể tùy bút cũng cho nhà văn một sự tự do vô bờ trong suy ngẫm, liên tưởng, so sánh. Nhà văn đã huy động một kho tri thức phong phú với vốn học vấn uyên bác, một vốn sống đa dạng, một khả năng quan sát tinh nhạy, một trí tưởng tượng phóng túng trong việc dựng nên một thế giới nghệ thuật về sông Đà kỳ vĩ, hoành tráng. Đọc Người lái đò Sông Đà cũng như các thiên tùy bút khác của Nguyễn Tuân, dễ có cảm giác bất ngờ: bất ngờ trước một cách tả cảm giác rất độc đáo: tưởng tượng một người quay phim cầm máy quay bị hút xuống “cái nút” của Sông Đà, ngồi dưới đáy quay ngược lên như cảm giác người xem “lấy gân” ghì chặt lấy ghế; bất ngờ trước một sự so sánh (ví dụ về chuyện có quãng Sông Đà vách đá chẹt lòng sông như một cái yết hầu “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy minh như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”); bất ngờ trước sự liên tưởng (để nói về sự vắng lặng của những đoạn Sông Đà ban đêm, ông “thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp – lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”. Chú ý: đến nay vẫn chưa có tuyến đường sắt ấy); bất ngờ trước lối tạo từ mới đặc sắc và là sở trường của nhà văn (Ví dụ: Thạch trận, màu xanh canh hến, bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, màu nắng tháng ba Đường thi,…).Đặc sắc của tùy bút Nguyễn Tuân còn tiếp tục được nghiên cứu, phân tích, nhưng có thể khẳng định rằng nhà văn đã tạo dựng được phong cách riêng đặc sắc, độc đáo của mình trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Ngôn ngữ tùy bút của Nguyễn Tuân đầy sáng tạo, một trong những nhân tố đem lại sự hấp dẫn cho người đọc. Đọc Người lái đò Sông Đà, chúng ta thêm yêu đất nước tươi đẹp hùng vĩ ngàn đời của ta, chúng ta thêm hiểu những kỳ tích lao động sáng tạo của nhân dân ta. Ta không thể không nói lời biết ơn Nguyễn Tuân đã giúp ta nuôi dưỡng được tình cảm tốt đẹp đó. TRẦN NHO THÌN Phần I. Đọc hiểu (3 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: Em là ai ? Cô gái hay nàng tiên Thịt da em hay là sắt là đồng ? Cho tôi hôn bàn chán em lạnh ngắt Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung Ôi trái tim em trái tim vĩ đại Còn một giọt máu tươi còn đập mãi Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời Cho quê hương em. Cho Tổ quốc, loài người! (Người con gái Việt Nam, Tố Hữu, Gió lộng, NXB Văn học, 1961) Câu 1: Đoạn trích trên được sáng tác vào giai đoạn văn học nào? Câu 2: Hình tượng nhân vật trung tâm của đoạn thơ là ai? Hình tượng nhân vật ấy được tác giả thế hiện với thái độ gì? Câu 3: Anh (chị) hãy chỉ ra và phân tích giá trị của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng ở đoạn thơ đầu. Câu 4: Trong khoảng từ 5 – 7 dòng, trình bày suy nghĩ của anh chị về vấn đề lẽ sống của tuối trẻ được đặt ra trong khổ thơ cuối cùng của đoạn trích . Phần II. Làm văn (7 điểm) Câu 1 (2 điểm): Bằng đoạn văn khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của anh (chị) về bài học mà người cha muốn nói với con trong bài thơ sau: Chẳng ai muốn làm hành khất Tội trời đày ở nhân gian Con không được cười giễu họ Dù họ hôi hám úa tàn Nhà mình sát đường họ đến Có cho thì có là bao Con phải răn dạy nó đi Nếu không thì con đem bán Mình tạm gọi là no ấm Ai biết cơ trời vần xoay Lòng tốt gửi vào thiên hạ Biết đâu nuôi bố sau này… (Dặn con, Trần Nhuận Minh) Câu 2 (5 điểm): Có ý kiến cho rằng: Sông Hương là bản tình ca ca ngợi về thiên nhiên và văn hóa xứ Huế. Qua phân tích tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường), hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. |
THẦY KHƯƠNG TRÊN FACEBOOK
|