Phân tích, cảm nhận bài thơ “Đồng chí” (Chính Hữu)ĐỒNG CHÍ Chính Hữu
– Thể thơ tự do, có 20 dòng – Bố cục: ba đoạn Đoạn 1(bảy câu thơ đầu): Lí giải về cơ sở hình thành nên tình đồng chí. Đoạn 2 (mười câu thơ tiếp): Những biểu hiện của tình đông chí và sức mạnh của nó. Đoạn 3 (ba câu cuối): Biểu hiện cao đẹp nhất của tình đồng chí.
– Bài thơ ca ngợi vè đẹp của tình đồng chí, đồng đội và hình ảnh người lính cách mạng. – Bài thơ có hình ảnh chân thực, cụ thể mà giàu sức khái quát, cô đọng, hàm súc, giàu sức biểu cảm. Lời thơ giàu chất tạo hình, giàu nhạc điệu. Thơ thơ tự do giúp diễn tả hiện thực và cảm xúc một cách linh hoạt. Bài thơ đã góp phần mở ra phương hướng khai thác chất thơ, vẻ đẹp của người lính trong cái bình dị, bình thường, chân thật. B – ĐỊNH HƯỚNG TIẾP CẬN VĂN BẢN
– Trước hết, tình đông chí bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân nghèo khó: Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Hai câu thơ giới thiệu về quê hương của những người lính. Anh và tôi đều là những người lính xuất thân từ nông dân, có lẽ vì thế mà mối quan tâm hàng đầu của họ là đất đai, giới thiệu về mình là giới thiệu về đồng đất quê mình. Nước mặn đồng chua là vùng ven biển, đất khó làm ăn; đất cày lên sỏi đá là vùng đồi núi trung du, đất khó canh tác. Họ đều chung cái nghèo, đó là cơ sở đồng cảm giai cấp của những người lính. Chính điều đó khiến họ từ mọi phương trời xa lạ tập hợp lại trong hàng ngũ quân đội cách mạng và trở nên thân quen với nhau. – Tình đồng chí còn được nảy sinh từ sự cùng chung lí tưởng, sát cánh chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc: Súng bên súng, đầu sát bên đầu Hình ảnh thơ có sự sóng đôi, gợi nên tình gắn bó của những người chung một đội ngũ, chung lí tưởng cao cả. – Tình đồng chí, đồng đội đã nảy nở và ngày càng gắn bó trong cuộc sống, chiến đấu biết bao gian khổ của người lính: Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Câu thơ đầy ắp kỉ niệm và ấm áp tình thân hữu – tình tri kỉ. Những hình ảnh thơ ở đây vừa cụ thể, sinh động, vừa mang ý nghĩa khái quát gợi liên tưởng sâu xa. – Từ sự sóng đôi của “anh” và “tôi” trong từng dòng thơ đến sự gần gũi “anh với tôi” trong một dòng thơ và đến thành một đôi nhưng “đôi người xa lạ” rồi mới thành “đôi tri kỉ” – đôi bạn trí cốt, hiểu nhau sâu sắc và cao hơn nữa là “Đồng chí!”. Từ rời rạc, riêng rẻ, dần nhập thành chung, thành một, khăng khít, keo sơn, khó tách rời. Câu thơ thứ bảy chỉ gồm hai chữ “Đồng chí” và dấu chấm than tạo một nốt nhấn, như một tiếng gọi thiết tha, xúc động vừa như một phát hiện, một kết luận, vừa như một bản lề gắn kết hai đoạn thơ, làm nổi rõ một tất yếu: cùng hoàn cảnh xuất thân, cùng lí tưởng thì trở thành đồng chí của nhau và mở ra ý tiếp – đồng chí còn như thế nào nữa.
– Đồng chí, đó là sự cảm thông sâu xa những hoàn cảnh, tâm tư, nỗi niềm sâu kín của nhau: Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính Ba câu thơ chỉ nói về “anh”, về bạn bởi vì họ cùng chung hoàn cảnh, chung nỗi niềm, đó cũng là tình tri kỉ, hiểu bạn như hiểu mình. Người lính ra đi chiến đấu để lại những gì quý giá, thân thiết nhất nơi làng quê (ruộng nương, gian nhà). “Mặc kệ” là quyết ra đi, mang dáng dấp trượng phu, nhưng vẫn nặng lòng gắn bó với quê hương. Hình ảnh “gian nhà không” đầy gợi cảm, vừa gợi cái nghèo nàn, xơ xác, vừa gợi cái trống trải trong lòng người ở lại khi người đàn ông ra trận. Để cả cơ nghiệp của mình hoang trống để ra đi, đó là một sự hi sinh. Hiểu rõ lòng nhau và hiểu cả nỗi niềm của người thân của nhau nơi hậu phương là tình tri kỉ. “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” là một cách nói tế nhị và giàu sức gợi, vừa là nhân hóa vừa là hoán dụ. Câu thơ nói về quê hương nhớ người lính mà thực ra là người lính nhớ nhà. Nỗi nhớ hai chiều nên càng da diết. Chỉ nói ai khác nhớ, đó cũng là cách tự vượt lên mình, nén tình riêng vì sự nghiệp chung. – Gắn bó với nhau trong đời thường, người lính càng gắn bó với nhau trong chiến đấu. Chia sẻ mọi tâm tư nỗi niềm để cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính với biết bao gian khổ: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay Những người lính cùng chịu bệnh tật – những cơn sốt rét rừng ghê gớm, cùng thiếu, cùng rách. Đây là hoàn cảnh chung của bộ đội ta những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Họ nhìn thấu và thương nhau từ những chi tiết nhỏ của đời sống. Những cặp câu thơ sóng đôi, đối xứng nhau (từng cặp hoặc trong từng câu) góp phần diễn tả sự sẻ chia, giống nhau trong mọi cảnh ngộ của người lính. Chữ “anh” và chữ “tôi” đến đây lại cùng xuất hiện, để cùng gánh vác, sẻ chia,không ai giành lấy cho mình sự ưu ái hơn. Tình đồng chí cho họ sức mạnh để vượt lên buốt giá – “miệng cười buốt giá” và ấm áp giữa buốt giá: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”, nắm lấy bàn tay nhau để ấm đôi bàn chân, để vượt lên gian khó. Những bàn tay như biết nói. Họ gắn bó với nhau để có thêm sức mạnh, niềm tin, hướng tới lí tưởng cao đẹp. Và đó là tình gắn bó sâu dày suốt trường kì kháng chiến. c)Biểu hiện cao đẹp nhất của tình đồng chí (Đồng chí là cùng chung chiến hào) Nhiệm vụ chủ yếu của người lính là đánh giặc, vì vậy tình đồng chí cao đẹp nhất là tình gắn bó thiêng liêng nơi tuyến đầu chống giặc, nơi sự sống và cái chết kề nhau trong tích tắc. Tình đồng chí đã được tôi luyện trong thử thách gian lao và đây là thử thách lớn nhất. Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo Ba câu thơ như dựng lên bức tượng đài sừng sững về tình đồng chí – trong hoàn cảnh khắc nghiệt, đêm, rừng hoang, sương muối, những người lính “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” – tạo nên tư thế “thành đồng vách sắt” trước quân thù, làm mờ đi cái gian khổ, ác liệt của cuộc chiến đấu. Hình ảnh họ tượng hình lại trong chi tiết bất ngờ, độc đáo: “Đầu súng trăng treo”. Câu thơ không trực tiếp nói về những người đồng chí mà vẫn hiển hiện tình đồng chí. Rất thực mà cũng rất lãng mạn. Trăng trôi trên nền trời, nhìn lên, trăng như treo đầu ngọn súng. Hình ảnh này có nguồn gốc thực tế. Trăng trôi trên nền trời, đến thời điểm nào đó, nhìn trăng lên, trăng như treo trên đầu ngọn súng. Nhịp 2/2 gợi sự sóng đôi và như gợi sự bát ngát, lơ lửng chứ không cột chặt. Súng và trăng cũng là một cặp đồng chí, tô đậm vẻ đẹp của cặp đồng chí kia. Tình đồng chí khiến người lính vẫn bình thản và lãng mạn bên thềm cuộc chiến đấu, khiến học thấy cuộc đời vẫn đẹp đẽ, thơ mộng ngay giữa nguy hiểm, gian lao, khiến họ có sức manh trong tư thế, có sự đằm thắm trong tâm hồn tình cảm. Hình ảnh thơ ở đây giàu sức khái quát , gợi nhiều liên tưởng. Súng: hình ảnh của chiến tranh, khói lửa; trăng: hình ảnh của thiên nhiên trong mát, cuộc sống thanh bình. Sự hòa hợp giữa súng và trăng toát lên vẻ đẹp tâm hồn người lính và tính đồng chí của họ, vừa nói lên ý nghĩa cao đẹp của cuộc sống chiến đấu. Người lính cầm súng là đẻ bảo vệ độc lập, tự do, hòa bình, hạnh phúc. Súng và trăng, thực và mộng, cứng rắn và dịu hiền , chiến sĩ và thi sĩ, chất chiến đấu và chất trữ tình,…Đó là các mặt bổ sung cho nhau của cuộc đời người lính cách mạng. Xa hơn, có thể xem đó là biểu tượng của thơ ca kháng chiến, nền thơ kết hợp chất hiện thực và cảm hứng lãng mạn.
Qua bài thơ về tình đồng chí hiện lên vẻ đẹp bình dị mà cao cả của người lính cách mạng, anh vệ quốc quân năm xưa. Bài thơ này là bức chân dung đẹp về người lính cụ Hồ. – Đó là những người lính xuất thân từ nông dân, ra đi từ những miền quê nghèo khó trên khắp mọi miền đất nước. Họ đã gác lại những gì quý giá, thân thiết nhất nơi làng quê để ra đi chiến đấu nhưng vẫn nặng lòng gắn bó với làng quê thân yêu. – Họ đã trải qua những gian lao, thiếu thốn tột cùng, những cơn sót run người, trang phục phong phanh giữa mùa đông buốt giá (áo rách, quần vá, chân không giày). Những gian lao, thiếu thốn càng làm sáng lên nụ cười của họ (miệng cười buốt giá). – Đẹp nhất ở họ là tình đồng chí, đồng đội keo sơn, thắm thiết. Tình đồng chí sưởi ấm lòng người chiến sĩ, tiếp cho họ sức mạnh, vượt lên tất cả, chiến đấu và chiến thắng. Hình ảnh người lính và tình đồng chí của họ kết tinh và tỏa sáng trong đoạn cuối bài thơ. Tình đồng chí xuất phát từ tình yêu nước và là cội nguồn của chiến thắng, kết tinh những tình cảm xã hội cao đẹp, làm nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ. Đó cũng là truyền thống cao đẹp của quân đội ta. Nguồn: Sách “Học luyện Ngữ văn 8” – Chủ biên: TS. Nguyễn Quang Trung Phần I. Đọc hiểu (3 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: Em là ai ? Cô gái hay nàng tiên Thịt da em hay là sắt là đồng ? Cho tôi hôn bàn chán em lạnh ngắt Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung Ôi trái tim em trái tim vĩ đại Còn một giọt máu tươi còn đập mãi Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời Cho quê hương em. Cho Tổ quốc, loài người! (Người con gái Việt Nam, Tố Hữu, Gió lộng, NXB Văn học, 1961) Câu 1: Đoạn trích trên được sáng tác vào giai đoạn văn học nào? Câu 2: Hình tượng nhân vật trung tâm của đoạn thơ là ai? Hình tượng nhân vật ấy được tác giả thế hiện với thái độ gì? Câu 3: Anh (chị) hãy chỉ ra và phân tích giá trị của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng ở đoạn thơ đầu. Câu 4: Trong khoảng từ 5 – 7 dòng, trình bày suy nghĩ của anh chị về vấn đề lẽ sống của tuối trẻ được đặt ra trong khổ thơ cuối cùng của đoạn trích . Phần II. Làm văn (7 điểm) Câu 1 (2 điểm): Bằng đoạn văn khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của anh (chị) về bài học mà người cha muốn nói với con trong bài thơ sau: Chẳng ai muốn làm hành khất Tội trời đày ở nhân gian Con không được cười giễu họ Dù họ hôi hám úa tàn Nhà mình sát đường họ đến Có cho thì có là bao Con phải răn dạy nó đi Nếu không thì con đem bán Mình tạm gọi là no ấm Ai biết cơ trời vần xoay Lòng tốt gửi vào thiên hạ Biết đâu nuôi bố sau này… (Dặn con, Trần Nhuận Minh) Câu 2 (5 điểm): Có ý kiến cho rằng: Sông Hương là bản tình ca ca ngợi về thiên nhiên và văn hóa xứ Huế. Qua phân tích tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường), hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. |
THẦY KHƯƠNG TRÊN FACEBOOK
|