Phân tích, cảm nhận “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (Phạm Tiến Duật)BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH Phạm Tiến Duật A- KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN BẢN
Bài thơ về Tiểu đội xe không kính thuộc chùm thơ được tặng giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969 – 1970, được đưa vào tập thơ Vầng trăng quầng lửa, NXB Văn học, Hà Nội, 1970.
Bài thơ được viết năm 1969, lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt, tác giả khi đó cũng là chiến sĩ ở Trường Sơn, gắn bó với những cung đường và những chiến sĩ lái xe quân sự. Đường Trường Sơn khi ấy là con đường huyết mạch nối hậu phương và tiền tuyến , là chiến trường khốc liệt. Thời đó, con người nâng mình lên khỏi mối quan hệ riêng tư, chấp nhận hi sinh, toàn tâm toàn ý dâng hiến cho Tổ quốc, cho kháng chiến. Thơ chống Mỹ là bản hợp ca ca ngơi tính thần hi sinh cống hiến đó. Trong đó nét nhạc ca ngợi người lính là nét nhạc chủ đạo. Bài thơ về tiểu đội xe không kính đã ra đời trong bối cảnh tư tưởng, cảm xúc của dân tộc như thế, trong âm hưởng sáng tác như thế.
– Bài thơ khác họa được nét độc đáo của những chiếc xe không kính và hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, hiên ngang, dũng cảm, sôi nổi, lạc quan, quyết chiến đấu giải phóng miền Nam. – Bài thơ chủ yếu kết hợp thể thơ bảy chữ và tám chữ, có chất liệu hiệnthực sinh động của cuộc sống ở chiến trường, sáng tạo những hình ảnh độc đáo , ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn. B – ĐỊNH HƯỚNG TIẾP CẬN VĂN BẢN
Bài thơ có nhan đề khá dài, tưởng như có chỗ thừa, nhưng vì thế mà độc đáo, thu hút sự chú ý. Nhan đề ấy làm nổi bật hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính. Hình ảnh này là một sự phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó và am hiểu hiện thực đời sống chiến tranh trên tuyến đường trường sơn. Hai chữ “Bài thơ” cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là hiện thực khốc liệt của chiến tranh, mà chủ yếu nhà thơ muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, vượt lên mọi gian khổ, hiểm nguy. Đó cũng là quan niệm nghệ thuật của tác giả, khám phá chất thơ từ chính hiện thực thưởng tượng như thô giáp đó. “Tiểu đội xe không kính” cũng là một cái tên tự đặt – rất lính, rất tếu hóm, rất ấn tượng. Nhan đề này đã gợi mở chủ đề, tạo được giọng điệu, sắc điệu thẩm mỹ riêng của bài thơ và gây ấn tượng cho người đọc.
Thời ấy, hình ảnh những chiếc xe ô tô đi vào thơ ca còn hiếm. Xưa nay, hình ảnh xe cộ, tàu thuyền khi đi vào thơ thường được “mỹ lệ hóa”, “lãng mạn hóa” và thường mang ý nghĩa tượng trưng. Còn những chiếc xe không kính trong thơ Phạm Tiến Duật lại là hình ảnh thực, thực đến trần trụi. Tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực “Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”. Hai câu thơ mở đầu đậm chất văn xuôi, giọng thản nhiên, càng gây sự chú ý về vẻ khác lạ của xe. Đây là những chiếc xe đã đi qua bom đạn thử thách. Bom đạn chiến tranh còn làm cho những chiếc xe bị phá hủy biến dạng đi, trần trụi hơn nữa: “Không có kính, rồi xe không có đèn – không có mui xe, thùng xe có xước”. Nhưng, bộ não, linh hồn của xe dường như không phải máy móc, mà là tấm lòng người chiến sĩ, nên “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước – Chỉ cần trong xe có một trái tim”. – Những chiếc xe không kính không phải hiếm trong chiến tranh, nhưng phải có hồn thơ nhạy cảm, có nét ngang tàng, tinh nghịch, thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó vào thơ trở thành biểu tượng độc đáo của thơ thời chiến tranh chống Mỹ. Hình ảnh này tạo nên cái tứ lạ, độc đáo, vừa tạo nên cái ác liệt, dữ dội của chiến tranh, vừa bộc lộ được phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ trong cuộc chiến đấu khốc liệt chống đế quốc Mỹ.Hình tượng này góp phần khắc họa một nét tư thế, chân dung của một dân tộc anh hùng.
– Chủ nhân của những chiếc xe không kính được miêu tả gắn liền với những chiếc xe và nổi bật lên trong toàn bài thơ: can trường, quả cảm, bất chấp mọi gian nguy, thiếu thốn. Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại như phép để bộc lộ ra phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của người chiến sĩ lái xe Trường Sơn – những người đã góp phần làm nên huyền thoại Trường Sơn một thời. – Người lính hiện ra với những ấn tượng, cảm giác cụ thể khi ngồi trên xe không kính. Qua khung cửa xe không còn kính chắn gió với tư thế “ nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”, người chiến sĩ lái xe tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài: Nhìn thấy gió xoa vào mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Nhìn sao trời và đột ngột cách chim Như sa như ùa cào buồng lái Xe lao nhanh trên con đường, gió làm đắng mắt, cái nhìn của người lái xe vẫn hút chặt vào con đường – con đường tiến lên phía trước, con đường chạy thẳng vào tim – con đường của trái tim. Cái “nhìn thấy” có cả sự sáng soi của lý tưởng, tình cảm. Không chỉ mặt đất mà cả bầu trời sao, cánh chim cũng như sa, như ùa vào buồng lái. Dường như cả thiên nhiên, vạn vật cũng theo người lính ra chiến trường. Hình ảnh thật thi vị, đó là chất thơ của cuộc chiến đấu. Hiện thực thì khốc liệt, mọi thứ có thể va đập, quăng quật vào buồng lái, nhưng người lính cảm nhận nó bằng một tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, nhạy cảm với cái đẹp. Những câu thơ trên miêu tả cảm giác rất thực của người lính nhưng cũng hé lộ diện mạo tinh thần thầm kín của họ. – Nổi bật lên vẫn là nét phẩm chất, tính cách cao đẹp của người lính. + Tư thế của họ thật ung dung, hiên ngang, tự tin, tự hào: Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng Hai câu sáu chữ nhịp 2/2/2 và chữ “ung dung” đảo lên đầu câu làm nổi bật lên tư thế ấy của người lính. “Nhìn thẳng” là cái nhìn đầy tự chủ, có vẻ trang nghiêm, bất khuất, không thẹn với đất trời, nhìn thẳng con đường phía trước, nhìn thẳng vào gian khổ, hi sinh, không run sợ, né tránh. + Xe không kính, biết bao gian khổ, người lính lái xe vẫn vượt lên với thái độ hiên ngang, bất chấp mọi gian khổ, hiểm nguy với tinh thần quả cảm: Không có kính, ừ thì có bụi Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính ừ thì ướt áo Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi. Cấu trúc “Không có kính, ừ thì…chưa cần…” lặp lại và những chi tiết “phì phèo châm điếu thuốc – Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”, “lái trăm cây số nữa” (trăm cây số giữa đường Trường Sơn đầy bom đạn, đèo dốc) đã bộc lộ rõ cái ngang tàn, bất chấp gian khổ của người lính. Thực tế, gió, bụi, mưa, … có thể gây bao khó khăn khi xe không có kính nhưng người lính đã bình thường hóa những cái không bình thường ấy vượt lên tất cả với sự cố gắng và tinh thần trách nhiệm rất cao. Họ đứng cao hơn hoàn cảnh, chấp nhận nó như một tất yếu. Hình ảnh họ vừa mang nét giản dị, dày dặn phong trần, vừa có nét kiêu hùng, lãng mạn. + Những chiến sĩ lái xe cũng là những chàng trai trẻ sôi nổi, vui nhộn, lạc quan và rất gắn bó với đồng đội. Cả bài thơ lấp lánh ánh cười khúc khích, cả tiếng cười “ha ha” sảng khoái, tự hào: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”. Đó đúng là tiếng thơ, tiếng cười của tuổi trẻ, của tâm hồn lạc quan. Sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên tiểu đội xe không kính. Sự gắn bó của những con người đã cùng qua bom đạn, thử thách càng bền chặt, sâu xa. Họ gặp nhau là đã thấy quen thân. Xe không kính, họ có thể bắt tay qua cửa kính vỡ rồi mà không cần mở cửa xe, thật thoải mái, tự hào, thắm tình đồng đội. Trên đường Trường Sơn, con đường giải phóng miền Nam, con đường chính nghĩa, họ càng đi càng có thêm nhiều bè bạn: “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”. Tình đồng đội đã hóa gia đình: “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời – Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Cách định nghĩa về gia đình thật “lính”, thật hóm mà cảm thì chân tình, sâu nặng. Gắn bó với nhau trong chiến đấu, họ càng gắn bó với nhau trong đời thường. Những phút nghỉ ngơi thoáng chốc, cái ăn, giấc ngủ thật giản dị, gian khó nhưng có đồng đội, người lính vẫn rất vui nhộn, lạc quan và lại hăm hở lên đường: Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi, trời xanh thêm Điệp ngữ “Lại đi” và nhịp 2/2/3 khẳng định đoàn xe không ngừng tiến tới, khẩn trương và kiên cường. Hình ảnh “trời xanh thêm” gợi lên tâm hồn lạc quan của người chiến sĩ. + Động lực mạnh mẽ và sâu xa tạo nên sức mạnh tinh thần lớn lao, bất chấp mọi nguy nan, mọi sự hủy diệt, tàn phá của kẻ thù ở người chiến sĩ đó chính là ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, là tình yêu nước nồng nhiệt. Khổ thơ cuối kết tinh vẻ đẹp của hình tượng những chiếc xe không kính và những chiến sĩ lái xe.Sự đối diện giữa hai phương diện vật chất và tinh thần, vẻ bên ngoài và bên trong chiếc xe, giữa “không” và “có” làm nổi bât cái gan góc, kiên định, không thể hủy diệt của xe, của người. Bom Mỹ đã làm cho những chiếc xe bị phá hủy, bị biến dạng đến trơ trụi “Không có kính rồi xe không có đèn, Không có mui xe, thùng xe có xước” nhưng thật kì lạ, “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước – Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Điệp ngữ “không có”, lối nói liệt kê và nhịp thơ dồn dập như diễn tả những khó khăn chồng chất. Nhưng sức mạnh tinh thần thật lớn lao. Tác giả lí giải bất ngờ mà chí lí, nói lên chân lí sâu xa về sức mạnh của tình yêu nước. Mọi thứ của xe không còn nguyên vẹn, chỉ cần vẹn nguyên trái tim yêu nước, trái tim vì miền Nam thì xe vẫn băng ra chiến trường, vẫn tới đích. Đó là sự dũng cảm, ngoan cường, là sức mạnh của lòng yêu nước và ý chí chiến đấu, chiến thắng. Trái tim người lính khiến chiếc xe trở thành một cơ thể thống nhất với người chiến sĩ, không gì tàn phá, ngăn trở được. Những chiếc xe càng thêm độc đáo bởi đó là những chiếc xe trái tim cầm lái. Chân dung người chiến sĩ được hoàn thiện với khí phách anh hùng và trái tim tha thiết yêu thương. Bài thơ đã khắc tạc được những bức chân dung độc đáo về người chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn thời chống Mỹ – can trường, quả cảm, đầy chất kiêu hùng trong vẻ giản dị nhất và tràn đầy tình yêu thương. Đó cũng chính là hình ảnh tiêu biểu của anh bộ đội Việt Nam, dân tộc Việt Nam thời chống Mỹ cứu nước. Nguồn: Sách “Học luyện Ngữ văn 8” – Chủ biên: TS. Nguyễn Quang Trung Phần I. Đọc hiểu (3 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: Em là ai ? Cô gái hay nàng tiên Thịt da em hay là sắt là đồng ? Cho tôi hôn bàn chán em lạnh ngắt Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung Ôi trái tim em trái tim vĩ đại Còn một giọt máu tươi còn đập mãi Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời Cho quê hương em. Cho Tổ quốc, loài người! (Người con gái Việt Nam, Tố Hữu, Gió lộng, NXB Văn học, 1961) Câu 1: Đoạn trích trên được sáng tác vào giai đoạn văn học nào? Câu 2: Hình tượng nhân vật trung tâm của đoạn thơ là ai? Hình tượng nhân vật ấy được tác giả thế hiện với thái độ gì? Câu 3: Anh (chị) hãy chỉ ra và phân tích giá trị của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng ở đoạn thơ đầu. Câu 4: Trong khoảng từ 5 – 7 dòng, trình bày suy nghĩ của anh chị về vấn đề lẽ sống của tuối trẻ được đặt ra trong khổ thơ cuối cùng của đoạn trích . Phần II. Làm văn (7 điểm) Câu 1 (2 điểm): Bằng đoạn văn khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của anh (chị) về bài học mà người cha muốn nói với con trong bài thơ sau: Chẳng ai muốn làm hành khất Tội trời đày ở nhân gian Con không được cười giễu họ Dù họ hôi hám úa tàn Nhà mình sát đường họ đến Có cho thì có là bao Con phải răn dạy nó đi Nếu không thì con đem bán Mình tạm gọi là no ấm Ai biết cơ trời vần xoay Lòng tốt gửi vào thiên hạ Biết đâu nuôi bố sau này… (Dặn con, Trần Nhuận Minh) Câu 2 (5 điểm): Có ý kiến cho rằng: Sông Hương là bản tình ca ca ngợi về thiên nhiên và văn hóa xứ Huế. Qua phân tích tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường), hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. |
THẦY KHƯƠNG TRÊN FACEBOOK
|