– Vũ Bằng (1913 – 1984) sinh tại Hà Nội, là nhà văn và nhà báo đã sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, có sở trường về truyện, tùy bút, bút kí. Sau năm 1954, ông vào Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng.
– Mùa xuân của tôi (tên bài do người soạn sách đặt) là đoạn đầu của thiên tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt, mở đầu cho tập tùy bút – bút kí Thương nhớ muời hai – tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Vũ Bằng. Ngoài phần Tự ngôn ở đầu sách, tập tùy bút có 12 bài viết về các nét đẹp văn hóa của con người miền Bắc Việt Nam, của Hà Nội, theo từng tháng trong năm. Với mỗi tháng, tác giả lại tìm được một nét riêng trong cảnh sắc, sinh hoạt, phong tục hay món ăn đặc trưng cho thời điểm ấy. Tất cả đều toát lên vẻ đẹp riêng biệt và bản sắc văn hóa tinh tế, độc đáo của một vùng đất nước và cũng là của dân tộc.
– Sáng tác trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, xa cách gia đình và quê hương xứ Bắc, vì vậy, cảnh sắc và không khí mùa xuân ở mảnh đất kinh kì được gợi lên trong bài viết là từ một mùa xuân trong tâm tưởng, mùa xuân trong hoài niệm, trong nỗi nhớ thương da diết. Kí ức sống dậy với bao bồi hồi, xao xuyến, bao xúc cảm trào dâng, ngòi bút người nghệ sĩ thăng hoa viết lên những trang văn tha thiết trữ tình, chứa chan tình cảm nồng ấm.
– Lời đề tặng ở đầu cuốn sách cũng là lời thương, lời nhớ tới một người… “Bắt đầu viết cuốn sach thì là nhớ. Viết đến câu chót thì là thương. Thương không biết bao nhiêu, nhớ không biết ngần nào người bạn Nguyễn Thị Qùy… Thân mến tặng cuốn sách để thay mấy lời ai điếu…”.
II – PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH
1.Bố cục của văn bản
Bài văn tái hiện cảnh sắc thiên nhiên và không khí mùa xuân trong tháng giêng ở Hà Nội và miền Bắc qua nỗi nhớ da diết của một người Hà Nội đi xa. Có thể chia đoạn trích làm ba phần với nội dung sau :
– Đọan 1 (từ đầu đến mê luyến mùa xuân) : tình cảm của con người với mùa xuân là một quy luật tự nhiên.
– Đoạn 2 (tiếp theo đến mở hội liên hoan) : cảnh sắc và không khí mùa xuân của thiên nhiên đất trời và lòng người.
– Đoạn 3 (còn lại) : cảnh sắc mùa xuân sau rằm tháng giêng.
Tình cảm con người trước mùa xuân như một quy luật tự nhiên
“Tự nhiên như thế : ai cũng chuộng mùa xuân” – câu văn mở đầu ngắn gọn khẳng định một quy luật tự nhiên của lòng người trước đất trời, thiên nhiên mùa xuân – mùa đầu tiên của một năm, mùa của tinh khôi lộc nõn, mùa của náo nức búp chồi, mùa của tình yêu, hạnh phúc, mùa của tuổi trẻ, đất trời và lòng người.
Bởi vậy, Vũ Bằng mới viết “Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió ; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con ; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân”. Không ai bảo được, cũng chẳng ai cấm được quy luật tất yếu của tự nhiên. Duyên dáng, nhẹ nhàng nhưng không kém phần khúc chiết, mạch lạc, cách diễn đạt trong câu văn mang một nét đằm thắm, rất riêng, dạo lên nét nhạc đầu xao xuyến đầy ấn tượng cho bản hòa tấu ngợi ca mùa xuân.
Cảnh sắc mùa xuân của đất trời và lòng người
Sau những dòng văn mở đầu mang tính triết lí ấy, nhà văn hồi tưởng về những nét đặc trưng của không gian đất trời Hà Nội khi xuân sang : “Mùa xuân của tôi – mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội,…” Câu văn ngân như những tiếng reo vui. “Mùa xuân của tôi”, bốn tiếng ngắn gọn ấy đã chứa bao cảm xúc thật sâu lắng. Trước mùa xuân, nhà văn không chỉ thưởng thức mà còn khao khát được sở hữu tất cả những nét đẹp nhất của đất trời khi vạn vật đang chuyển mình bước vào một năm mới.
Qua hồi tưởng của nhà văn, cảnh sắc và không khí ngày Tết – mùa xuân Hà Nội – hiện ra thật đẹp và đáng yêu. Tín hiệu báo xuân về là : “Mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình…”. Mưa riêu riêu là mưa phùn nhỏ, kéo dài mênh mang khắp bầu trời như rây bột, là mưa xuân thúc cho mầm cây trồi dậy,… Tiếng hát huê tình là tiếng hát giao duyên, tỏ tình của những đôi trai gái yêu nhau. Cảnh mưa phùn, cái lạnh của mùa xuân đất Bắc tất nhiên gợi lên nỗi nhớ da diết nhất, gợi nhiều liên tưởng nhất trong tâm hồn người con xa xứ, đang sống trên vùng đất phương Nam của Tổ quốc chỉ có hai mùa mưa nắng.
Nhà văn Vũ Bằng, một con người đang sống li hương, đã nhớ về những kỉ niệm xưa và bộc bạch qua những lời văn trữ tình, đằm thắm : “Người yêu cảnh, vào những lúc đất trời mmang mang như vậy, khoác một cái áo long, ngậm một ống điếu mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó – có lẽ là sự sống !”. Hay : “Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên rong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trồi ra thành những cái lá nhỏ li ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh”. Và : “Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá… Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà lại cũng thấy yêu thương nữa”…
Mùa xuân, với sức mạnh thiêng liêng, kì diệu đã khơi dậy sức sống và sinh lực cho vạn vật và lòng người. Trước mùa xuân, nhà văn đã thổ lộ một tình yêu nồng thắm, tha thiết đến mức như muốn hóa than thành muôn loài cây cỏ, chim muông để được hưởng thụ tất cả sức sống tràn trề của trời đất. Tâm hồn nghệ sĩ trong xa nhớ, yêu thương mỗi lúc càng rạo tực, đắm say và càng trở nên ấm áp bởi hình ảnh mùa xuân quên hương đang ùa về, dào dạt trong tâm tưởng.
Đọng lại trong cảnh sắc mùa xuân Hà Nội và nỗi nhớ quê hương là hình ảnh những gia đình Hà Nôị bày cỗ đón xuân, bái vọng tổ tiên : “Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng…”. Cảnh sắc mùa xuân không chỉ hiện lên qua vẻ đẹp thiên nhiên mà còn hiện lên qua những nét đẹp trong cuộc sống con người. Đó là nét văn hóa tâm linh truyền thống thật đáng trân trọng của con người Hà Nội, đất Bắc, của quê hương Việt Nam. Đó không đơn giản là cảnh sắc xuân, là không gian xuân của miền Bắc mà là văn hóa xuân, con người xuân. Nhớ về mùa xuân cũng tức là nhớ về con người.
Nhà văn đã dành tình yêu đặc biệt cho một khoảng thời gian mãi nhớ trong tâm tưởng – sau ngày rằm tháng giêng, để rồi phát hiện thêm ở mùa xuân vẻ đẹp của sự hồi sinh, cây cỏ trổ lộc, đơm hoa kết trái : “Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột…”. Những hình ảnh thiên nhiên từ sau ngày rằm tháng giêng không rực rỡ bằng những ngày tết mà dường như đang tích tụ, chưng cất sức sống của mùa xuân để nối tiếp cuộc tuần hoàn kì diệu của lối sống con người và đất trời, cây cỏ : “…đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác…”. Nhà văn đẫ lắng lòng trong giây phút để nhớ thương, để khao khát, hoài niệm… Và rồi, hình ảnh “cánh màn điều” và phong tục “hóa vàng” được nhắc tới ở cuối bài như những nút nhấn về một mùa xuân ấm áp trong kí ức của tác giả. Mùa xuân đâu chỉ còn là mùa xuân, nó còn là một phần của quê hương, mùa xuân là con người, là văn hóa.
Đặc sắc nghệ thuật
Bài văn có kết cấu mạch lạc. Từng phần được gợi mở và kết thúc tự nhiên, nhịp nhàng theo mạch cảm xúc và dòng hồi tưởng của nhà văn về mùa xuân Bắc Việt,tạo được sự cuốn hút đối với người đọc. Ngòi bút tài hoa, tinh tế, đầy ngẫu hứng của nhà văn đã tạo một nét riêng độc đáo và đậm đà chất thơ trong bài tùy bút. Giọng văn khi duyên dáng, nhẹ nhàng, khi sôi nổi, da diết đã diễn tả một cách trọn vẹn cảm xúc mãnh liệt của một tâm hồn nghệ sĩ đa tình, đắm say trong xa nhớ, yêu thương.
Việc sử dụng thành công thủ pháp liệt kê, điệp cấu trúc với những hình ảnh so sánh mới lạ đã tạo được một sắc xuân đầy ấn tượng của một Hà Nội cổ kính, thanh lịch, hào hoa. Nhà văn vừa miêu tả, vừa tự sự, miêu tả để biểu cảm, tự sự và triết lí cũng để biểu cảm. Tất cả đã giúp “mùa xuân của tôi” hiện lên với nhiều góc độ, dáng vẻ để lại ấn tượng sâu đậm, khó quên trong lòng người.
*Với tâm hồn tinh tế, nhạy cảm và ngòi bút tài hoa, nhà văn Vũ Bằng đã tái hiện trong bài tùy bút cảnh sắc thiên nhiên không khí mùa xuân ở Hà Nội và miền Bắc trong nỗi nhớ thương da diết của một người con xa quê. Từ đó nhắn gửi tới người đọc tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước, cuộc đời.
Em là ai ? Cô gái hay nàng tiên
Em có tuổi hay không có tuổi
Mái tóc em đây, hay là mây là suối
Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm giông
Thịt da em hay là sắt là đồng ?
Cho tôi hôn bàn chán em lạnh ngắt
Cho tôi nâng bàn tay em nắm chặt
Ôi bàn tay như đôi lá còn xanh
Trên mình em đau đớn cả thân cành
Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng
Em đã sống lại rồi, em đã sống!
Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung
Không giết được em, người con gái anh hùng!
Ôi trái tim em trái tim vĩ đại
Còn một giọt máu tươi còn đập mãi
Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời
Cho quê hương em. Cho Tổ quốc, loài người!
(Người con gái Việt Nam, Tố Hữu, Gió lộng, NXB Văn học, 1961)
Câu 1: Đoạn trích trên được sáng tác vào giai đoạn văn học nào?
Câu 2: Hình tượng nhân vật trung tâm của đoạn thơ là ai? Hình tượng nhân vật ấy được tác giả thế hiện với thái độ gì?
Câu 3: Anh (chị) hãy chỉ ra và phân tích giá trị của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng ở đoạn thơ đầu.
Câu 4: Trong khoảng từ 5 – 7 dòng, trình bày suy nghĩ của anh chị về vấn đề lẽ sống của tuối trẻ được đặt ra trong khổ thơ cuối cùng của đoạn trích .
Phần II. Làm văn (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm): Bằng đoạn văn khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của anh (chị) về bài học mà người cha muốn nói với con trong bài thơ sau:
Chẳng ai muốn làm hành khất
Tội trời đày ở nhân gian
Con không được cười giễu họ
Dù họ hôi hám úa tàn
Nhà mình sát đường họ đến
Có cho thì có là bao
Con phải răn dạy nó đi
Nếu không thì con đem bán
Mình tạm gọi là no ấm
Ai biết cơ trời vần xoay
Lòng tốt gửi vào thiên hạ
Biết đâu nuôi bố sau này…
(Dặn con, Trần Nhuận Minh)
Câu 2 (5 điểm):
Có ý kiến cho rằng: Sông Hương là bản tình ca ca ngợi về thiên nhiên và văn hóa xứ Huế. Qua phân tích tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường), hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.