TUYỂN CHỌN NHỮNG BÀI VĂN ĐOẠT GIẢI QUỐC GIA HỌC SINH GIỎI TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2004
Không có phản hồi
Năm 2004
ĐỀ BÀI
Câu 1. Nhà phê bình Hoài Thanh viết: Thích một bài thơ, theo tôi nghĩ, trước hết là thích một cách nhìn, một cách nghĩ, một cách xúc cảm, một cách nói, nghĩa là trước hết là thích một con người. (Tuyển tập Hoài Thanh, tập II, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1982) Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên?
Câu 2. Phân tích vẻ đẹp của đoạn văn sau đây: (…) Ðêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, làm họ dụi mắt lia lịa. Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căngtrên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy và đĩnh đạc bảo: – Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người. Thoi mực, thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?… Tôi bảo thực đấy, thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi. Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo. Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau. Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. (Nguyễn Tuân, Chữ người tử tù, Ngữ văn 11, tập một, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000)
YÊU CẦU LÀM BÀI
Câu 1. Suy nghĩ của người viết về ý kiến của Hoài Thanh: Trong ý kiến này, Hoài Thanh đã đề cập đến vấn đề tiếp nhận văn học (mối quan hệ giữa người đọc và tác phẩm, tác giả), đồng thời nêu lên những yêu cầu, những khía cạnh cơ bản của phong cách nghệ thuật thể hiện qua tác phẩm cụ thể. Phong cách ấy phải độc đáo (một cách), và chỉ khi đạt tới sự độc đáo về cả bốn phương diện (cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm, cách nói) thì mới có khả năng tạo nên khoái cảm thẩm mĩ cho người đọc. Cần nêu được một số ý cơ bản sau: – Có thể giải thích ngắn gọn các từ: cách nhìn, cách nghĩ, cách xúc cảm, cách nói, từ đó nêu lên thực chất của câu nói: thích một bài thơ trước hết là thích một con người, thích phong cách của nhà thơ đó. Phong cách ấy phải thể hiện ở cả hai phương diện nội dung và hình thức. – Tại sao thích một bài thơ… trước hết là thích một con người, một phong cách? + Xuất phát từ yêu cầu của sáng tạo nghệ thuật nói chung và thơ nói riêng: một bài thơ hay là bài thơ có cách nhìn, cách nghĩ, cách xúc cảm, cách nói mới mẻ, độc đáo. (Có thể liên hệ đến ý kiến của Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Nam Cao… để làm sáng tỏ điều này). + Xuất phát từ đặc trưng của thơ ca: thơ là tiếng nói trữ tình. Một bài thơ phải thể hiện một cách chân thực vẻ đẹp tâm hồn, cá tính của chủ thể sáng tạo. Ý kiến của Hoài Thanh gần gũi với ý kiến của Buy-phông: “Phong cách chính là người”. – Nhận định của Hoài Thanh nêu lên sự gặp gỡ tri âm giữa người sáng tác và người tiếp nhận văn học: + Đây là một nhận định đúng đắn, sâu sắc. Một bài thơ hay phải là một giá trị độc đáo, một kết tinh của tình cảm thẩm mĩ. Một người yêu thích văn chương phải là người có tâm hồn nhạy cảm, biết rung động, biết khám phá giá trị độc đáo của tác phẩm, từ tác phẩm mà nhận ra phong cách của nhà văn. + Ý kiến trên đây cho thấy nguyên tắc thẩm mĩ của Hoài Thanh: “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”. Hoài Thanh từng nói, với bài thơ hay ông thường ngâm đi ngâm lại, thường “triền miên” trong đó. Như vậy, người tiếp nhận phải có khả năng nhập thân và đồng sáng tạo cao độ. – Tuy nhiên, “thích” và đồng sáng tạo không có nghĩa là bình tán, suy diễn tùy tiện, gượng ép mà phải trên cơ sở hiểu được bản chất, quy luật sáng tạo nghệ thuật, hiểu được mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức của tác phẩm văn học.
Câu 2. Đề yêu cầu phải nắm vững kĩ năng phân tích một đoạn văn xuôi nghệ thuật. Cụ thể là, nắm được vẻ đẹp về nội dung và hình thức. Tuy nhiên, người viết cần phải thông qua vẻ đẹp của hình thức mà làm nổi bật nội dung. Việc phân tích đòi hỏi phải đặt đoạn văn trong chỉnh thể tác phẩm để góp phần làm nổi bật chủ đề tư tưởng và thấy rõ phong cách nghệ thuật của tác giả. Phân tích vẻ đẹp của đoạn văn: – Xác định vị trí của đoạn văn và ý bao trùm: Đoạn văn nằm ở phần cuối của tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. Đây là đoạn văn thể hiện rõ nhất tư tưởng chủ đề, cảm hứng và bút pháp lãng mạn. Thông qua đoạn văn này, Nguyễn Tuân đã dựng lên một tượng đài bất tử và bi tráng về cái đẹp. – Để làm nổi bật nội dung cơ bản trên, bài viết có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, nhưng cần khai thác được một số phương diện sau: + Điểm nhìn nghệ thuật: Cách tái hiện cảnh cho chữ từ điểm nhìn của ngôi thứ ba đã làm tăng tính khách quan của sự việc và thể hiện được cảm hứng ngưỡng vọng cái đẹp. + Nghệ thuật tạo tình huống: Đây là một tình huống độc đáo, hi hữu “xưa nay chưa từng có”. + Thủ pháp đối lập và cách khắc họa tính cách nhân vật: Đây là thủ pháp quan thuộc của bút pháp lãng mạn. Chú ý các đối lập chính: đối lập về vị thế của nhân vật; đối lập về không gian chật chội, tù túng, ẩm ướt và hành vi sáng tạo cái đẹp; đối lập về tư thế… Chú ý nghệ thuật lựa chọn chi tiết để khắc họa tính cách nhân vật đặc sắc, giàu tính biểu tượng (bó đuốc, tấm lụa, người tù tô những dòng chữ đẹp, quản ngục khúm núm, cách nói của Huấn Cao, quản ngục vái lạy…). + Nghệ thuật dựng không khí: trang nghiêm, linh thiêng, đượm màu cổ kính. + Ngôn ngữ, nhịp điệu đoạn văn: sử dụng nhiều từ Hán Việt, ngôn ngữ trang trọng, nhịp văn chậm… phù hợp với tính cách, không khí và cảm hứng “thiêng hóa” nhân vật.
BÀI LÀM
Câu 1. Âm điệu những vần thơ tự bao giờ đã ngân vang trong trái tim tôi. Là giọng ru ngọt ngào của mẹ, là câu thơ dậy lên màu xanh mướt của ruộng đồng, là tiếng ca lảnh lót của niềm yêu đời… Mỗi bài thơ mở ra một hình sắc riêng, một cảm xúc riêng về thế giới. Say mê trong thi giới, đôi khi tôi băn khoăn tự hỏi: điều gì trước nhất làm nên sức hấp dẫn của thơ ca? Tìm gặp ý kiến của Hoài Thanh, tôi mới thấm thía: Thích một bài thơ, theo tôi nghĩ, trước hết là thích một cách nhìn, một cách nghĩ, một cách xúc cảm, một cách nói, nghĩa là trước hết là thích một con người. (Tuyển tập Hoài Thanh, tập II, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1982) Cảm nhận thơ ca đòi hỏi một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm. Một bài thơ là nguồn phát ra những tần sóng dao động phong phú, mà mỗi người đọc tùy sở trường, cách nghĩ riêng sẽ lấy tần số tâm hồn mình mà giao thoa. Thích một bài thơ, có ai giống ai đâu. Tuy nhiên, có thể tạm quy về những tiêu chuẩn nào đó. Theo tôi, ý kiến của Hoài Thanh là có lí: Thích một bài thơ… trước hết là thích một cách nhìn, một cách nghĩ, một cách xúc cảm, một cách nói, nghĩa là trước hết là thích một con người. Thích là trạng thái, sắc độ cảm xúc yêu mến, nghiêng về cảm tính, khoái cảm. Đứng trước một bài thơ mà như bị nam châm hút, ấy là thích vậy. Nói thích một bài thơ có nghĩa là tác phẩm ấy phải có sức hấp dẫn riêng. Có nhiều yếu tố để gợi ra đam mê nghệ thuật, theo người viết, trước hết là một cách nghĩ, một cách xúc cảm tức sức hấp dẫn về nội dung; một cách nói hay sức hấp dẫn từ hệ thống các phương tiện biểu đạt. Tựu trung lại là thích một con người. Con người ở đây không đơn thuần hay đồng nhất với con người ngoài đời mà đó là một cá tính văn chương, một gương mặt nghệ thuật riêng. Như vật, bằng năng lực cảm nhận thơ tinh tế, nhà phê bình đã nói lên một khía cạnh trong vẻ đẹp thơ, đó là sự sáng tạo. Chữ một điệp lên như một nốt nhấn, làm nổi bật tính duy nhất, riêng có của tác phẩm nghệ thuật. Một con người thực chất là phong cách nghệ thuật. Trong xã hội có vô vàn những cá tính, hình hàng riêng thì trong thơ cũng vậy, muôn hình muôn vẻ. Sẽ ra sao nếu bài thơ nào cũng nhác giống nhau? Văn chương sẽ đi về đâu nếu tác phẩm này là bản sao của tác phẩm kia? Khi ấy, liệu người đọc có còn say mê ngâm nga những dòng thơ? Cho nên, một bài thơ hay, có sức sống, theo Hoài Thanh, gồm nhiều yếu tố, nhưng trước hết phải mới mẻ, độc đáo, in dấu một phong cách riêng biệt. Mỗi từ thơ phải như viên ngọc long lanh, lấp lánh tỏa ra thứ ánh sáng riêng. Nó cuốn người đọc vào tâm xoáy của cảm xúc, làm say mê bằng nhịp điệu, ngôn ngữ. Sáng tạo có thể xem là yếu tố đầu tiên của thơ hay vậy. Xuất phát từ suy nghĩ cá nhân, song dường như bằng sự trải nghiệm của một đời nghiên cứu, Hoài Thanh đã đồng cảm được những trăn trở của nhiều người đọc khi đến với một bài thơ hay. Ai từng băn khoăn trước một câu ca dao ngọt ngào, từng say đắm một vần thơ sẽ rất thấm thía điều này. Quy luật tiếp nhận cho thấy dường như có một vận động trái ngượ. Những tác phẩm không có gì mới sẽ bị thời gian đào thải. Nhắc đi nhắc lại điều đã cũ, diễn lại một vài cách rất quen, cũng giống như con khướu, con vẹt bắt chước tiếng người; sớm muộn ngày một ngày hai sẽ phôi pha. Lại có những tác phẩm mãi tồn tại như một dấu khác trong trái tim muôn người, không thôi được luận bàn. Nó ẩn chìm bao tầng sâu ngữ nghĩa, bao lớp ngôn từ độc đáo mà mỗi người đọc bằng sự tìm tòi riêng sẽ thấy những tầng vỉa lấp lánh. Không phải ngẫu nhiên mà Lép Tôn-xtôi từng tâm niệm: Khi đứng trước một nhà văn, điều đầu tiên chúng ta bao giờ cũng hỏi liệu anh ta có đem đến một cái nhìn mới, một cách thể hiện mới hay không? Tôi từng thích thú với hình ảnh đất nước quyện trong nỗi nhớ hương cốm mới, từng ngỡ ngàng vì sao một chiếc hương mong manh thế, thảng hư thế mà vương được hồn quê. Cứ ngỡ đó là một đất nước đẹp nhất. Vậy mà đến với chương V trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước một lần nữa sống dậy trong tôi. Gần gũi mà thiêng liêng. Quá khứ trong hiện tại. Vô hình trong hữu hình. Đất nước đâu gì xa lạ mà ngay trong miếng trầu bây giờ bà ăn. Câu thơ nghiêng nghiêng cái nhìn của huyền thoại, của truyền thống văn hóa từ nghìn đời. Mới hay, mỗi bài thơ là một hình sắc riêng. Người đọc đến với tác phẩm là để tìm những suy nghĩ sâu sắc, thấm thía một cách nhìn, một cách nghĩ, một cách xúc cảm say mê trong khoái cảm thẩm mỹ mà một cách nói đem lại. Ý kiến của nhà phê bình có lẽ cũng có nguyên cớ từ bản chất sáng tạo của lao động nghệ thuật. Con chim cất tiếng hót mong lưu lại giọng ca lảnh lót. Nghệ sĩ cầm bút ai chẳng nguyện đem đến một tiếng nói mới mẻ, độc đáo. Sáng tác nghệ thuật không phải là công việc sản xuất hàng loạt. Nó là sản phẩm cá thể, cá nhân thi sĩ làm. Tác phẩm càng không phải là sự cộng ghép giản đơn từ người này hay người khác. Sẽ ra sao nếu tác phẩm này song sinh với tác phẩm kia. Lối đi của văn chương muôn đời không phải con đường thẳng duy nhất, nó là vô vàn ngã rẽ, là đại dương dạt dào hợp lưu từ muôn dòng chảy. Không sáng tạo, lặp lại người, lặp lại mình kể như là cái chết của nghệ thuật vậy. Làm sao để từ một nguồn vút lên những âm thanh, từ một cung đàn ngân bao cung bậc. Ép-tu-sen-cô có lí khi cho rằng: Tự tử với đời nghệ sĩ không phải là phát súng hay sợi dây thừng mà chính là khi ngồi vào bàn viết, không đem đến một cái gì mới mẻ. Nhìn vào lịch sử văn chương có thể thấy diện mạo đa dạng, phong phú của các gương mặt nghệ thuật. Điều này lí giải vì sao thơ ca cho đến bây giờ vẫn là sự hấp dẫn vĩnh viễn, vẫn không ngừng sinh sắc. Cùng viết về tình yêu, trái tim nghệ sĩ Ta-go muốn dành cho người yêu tất cả những gì đẹp nhất, có đôi mắt nào băn khoăn nhìn vào thăm thẳm trái tim người thương để suy tư, để trăn trở. Còn Pu-skin, một trái tim hồn hậu, vị tha, vừa bốc men say sưa vừa dịu lắng vào lí trí tỉnh táo lại tìm đến lẽ cao thượng: Cầu em được người tình như tôi đã yêu em. Không lặp lại người khác đã đành, sáng tạo nghệ thuật cũng không chấp nhận sự lặp lại của một cá nhân. Bởi đâu cùng viết về mùa thu đồng bằng Bắc Bộ mà mỗi bài thơ trong chùm ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến vẫn làm bao trái tim người rung động. Một thoáng thẹn, một chút bâng khuâng ngơ ngẩn trong Thu vịnh. Một chút man mác buồn của những câu thơ ngậm nỗi niềm thời thế trong Thu điếu. Một mình một chén mắt đỏ hoe trong Thu ẩm. Ấy là tâm hồn Yên Đổ, tài năng Yên Đổ. Trái tim nghệ sĩ như dây đàn giăng giữa đất trời, chút gió thoảng qua, làm sao chẳng ngân rung một nhịp riêng. Thế nên một điệu tâm hồn mà vút lên nhiều cung bậc, ba bài thơ thu mà bài nào cũng thoát bay một ý vị riêng, một sức hấp dẫn riêng. Mới thấm thía muôn đời là sự đi về của sáng tạo. Từ trái tim đến trái tim, thơ bắc nhịp cầu giao cảm bằng những nghĩ suy sâu sắc. Hấp dẫn người đọc, thơ trước hết phải có một cách nhìn, một cách nghĩ, một cách xúc cảm là như vậy. Song chẳng lẽ chỉ cảm xúc mãnh liệt là đủ thôi sao? Thơ cần có đôi cánh nghệ thuật để nâng đỡ sức mạnh trái tim. Sự hài hòa giữa nội dung và hình thức mãi là quy luật văn chương muôn đời vậy. Thơ rất cần những ý tứ sâu sắc và những ý tứ ấy phải được chuyển tải trong một hệ thống các phương tiện biểu hiện độc đáo. Thế nên có nhà thơ từng tâm niệm: Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác. Một suy nghĩ rất sâu sắc nếu chuyển tải trong hình thức vụng về sẽ không đủ sức hấp dẫn. Lớp ngôn từ sắc sảo mà thiếu đi vẻ đẹp nội dung cũng phù phiếm như bông hoa làm bằng vỏ bào vậy. Đọc thơ Xuân Hương, người đọc như bị cuốn vào tâm xoáy của bão táp cảm xúc. Dẫu là tiếng thơ trào lộng hay lắng vào tâm tình sâu xa thì nổi lên vẫn là một cá tính ngang tàng. Ngôn ngữ thơ gai góc, gập ghềnh như cái đứt gãy tự bên trong trái tim nữ sĩ. Nếu thơ Bà Huyện Thanh Quan cổ kính, trang nhã như một toà thành, một lâu đài thi thơ Xuân Hương tuơn sắc, phong phủ như đồng ruộng, nước non. Một cá tính mạnh mẽ đâu thể dung hợp trong thi pháp tĩnh tại mà phải dồn trong thế giới thơ sống động. Nguời ta yêu thích thơ nữ si họ Hồ có lẽ cũng bởi lần đầu tiên sự sống sinh sắc như thế trong thơ. Bông hoa làm say lòng người bởi hương thơm và màu sắc. Thơ giữ mãi ngọn lứa rực cháy qua bao thế hệ một phần bởi sức sáng tạo kì diệu của nó. Tôi còn nhớ đã bao lần đứng trước mùa thu, lắng nghe nhịp đến nhịp đi của mùa, lòng không khỏi bâng khuâng, náo nức mà không sao nói lên lời. Chi khi đến với những vẫn thơ của Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu… mới thấy từng nhịp thổn thức đang lắng trong từng con chữ. Song không phải vì cùng một dể tài mà hai nhà thơ chỉ có nét giống nhau. Đọc Thu vịnh và Đây mùa thu tới, tôi vẫn nhận ra những xao xuyến riêng. Thu của cụ Tam Nguyên là mùa thu ở nông thôn, đượm vẻ buồn đồng ruộng, còn thu của Xuân Diệu lại bâng khuâng cải cảm xúc thị thành. Một bên mùa thu đã hoàn tất còn một bên thu vừa mới chớm. Một bên trước thu mà gợi tình, một bên tìm cảm xúc vương mang trong nhịp bước của nàng thu. Một bên là đổi khách còn bên này là kẻ đi tìm mình trong thu. Ngay cảnh vật thôi, cách miêu tả thật khác. Ám ảnh đến thế màu xanh với vợi trong thơ cổ nhân: Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Một màu xanh ngắt là cái cao rộng, không cùng của đất trời cũng là điểm xoáy đậm đặc của con mắt yêu say. Không gắn bó với quê hương, thi sĩ có nảy ra được tử đất trời một màu xanh thăm thẳm đến thế. Nguời Việt Nam ai chẳng một lần rung động trước màu xanh ấy. Cũng là sắc thu nhưng cảm quan thi sĩ thơ mới lại bắt được khoảnh khắc thu phôi phai trong sắc lá: Với áo mơ phai dệt lá vàng. Mơ phai là màu gi? Không rõ. Câu thơ nhập nhoà giữa thực và hư. Đó là cải nhoè đi của cảm xúc hay cảnh vật đang sinh sắc trong thơ. Cũng là màu vàng từng in dấu qua bao tác phẩm thi ca cổ điển, nhưng bước vào thơ Xuân Diệu nó lại tái sinh một sắc mới. Ấy là màu của mùa thu hay là màu sắc trái tim nghệ sĩ. Nếu Thu vịnh đem đến một mùa thu gợi cảm, tinh tế bằng bút pháp cổ điển thì Đây mùa thu tới lại hấp dẫn bằng bút pháp tả thực. Nguời đọc chạm đến từng con chữ là chạm tới bước đi của mùa. Cảnh đã khác, tình cũng đổi thay. Khoảnh khắc thu sang, thi sĩ họ Nguyễn chạnh một chút bâng khuâng, một cái thẹn vút lên nhân cách sáng ngời. Tiếng ngỗng giữa không trung rơi vào khoảng lặng vắng chơi vơi của trái tim người. Chút ngẩn ngơ, bâng khuâng ấy chẳng phải còn mãi ám ảnh người đọc hay sao? Với thi sĩ Thơ mới, cảm xúc không nghiêng về nỗi niềm ưu thời mẫn thế của cổ nhân mà man mác sầu buồn. Tâm trạng đi chênh vênh giữa náo nức và tủi sẩu. Cái động thái tựa ca nhìn xa nghĩ ngợi gì khép lại bài thơ mà vẫn để lại giữa không cùng một cái nhìn vô định, mông lung. Thế đấy, mùa thu bao lần đi qua, mỗi khoảnh khắc trái tim thi sĩ lại rung lên một nhịp riêng. Giữa bao vần thơ thu, mãi đi về trong trái tim tôi một Thu vịnh, một Đây mùa thu tới. Có phải những tác phẩm ấy đã hấp dẫn tôi, mãi sinh sắc, xanh tuơi bởi mạch nguồn sáng tạo. Thế mới hay thích một bài thơ… trước hết là thích một con người. Một Nguyễn Khuyến lắng vào thâm trầm. Một Xuân Diệu băn khoăn gửi cái buồn vương vất vào hư không. Ý kiến của Hoài Thanh nhấn vào cái hấp dẫn trước hết của một bài thơ. Làm nên vẻ đẹp một bài thơ có nhiều yếu tố: tính dân tộc, tính nhân loại,… nhung cái tiên quyết vẫn là gương mặt nghệ thuật riêng. Có những bài thơ sáng tạo, hấp dẫn người đọc bằng chính sự chân thành. Tôi nghĩ viết hết mình cũng là sự sáng tạo vậy. Thêm nữa, sáng tạo bao giờ cũng phải có gốc rễ sâu xa từ truyền thống. Cho nên, thích thú một bài thơ vì nó là mạch chảy bắt nguồn từ truyền thống vậy. Suy nghĩ của Hoài Thanh không chỉ hợp lí cho sự tiếp nhận thơ nói riêng mà với cả văn học nói chung. Càng thấm thía bài học với nghệ sĩ: muốn tạo ra những tác phẩm có giá trị, có sức sống phải sáng tạo. Vẫn âm vang mãi nhịp mùa thu trong những vần thơ ấy. Thơ ca, muôn đời là chuyện của trái tim, nghệ thuật.
Câu 2. Cứ ám ảnh mãi trong tôi hình ảnh một tử tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng và những nét chữ thoát bay. Cái xấu xa ngục tù và vẻ đẹp của nhân tính, thiêng liêng. Sáng tạo nghệ thuật hoài thai ngay giữa hoàn cảnh tối tăm. Những câu văn trang trọng mà đầy chất thơ. Chữ người tử tù đã để lại cho tôi những cảm nhận ấy. Có lẽ tinh hoa ngòi bút Nguyễn Tuân, vẻ đẹp cả thiên truyện đã thăng hoa trong cảnh cho chữ cuối cùng này. Điều hấp dẫn người đọc đầu tiên, có lẽ là bút pháp dựng cảnh độc đáo, nói như chính tác giả: một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Khoảnh khắc cho chữ, khoảnh khắc cái đẹp thăng hoa từ buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Ngục tù vốn là nơi tăm tối nhất, nơi mà bóng đen của cái xấu, cái ác ngự trị lại là nơi sinh thành nét chữ Huấn Cao. Những câu văn như bị nén lại làm lan toả một không khí thiêng liêng. Ngon đuốc sáng rừng rực, vuông vải còn nguyên vẹn lần hồ, ba mái đầu chụm lại bên nhau,… tất cả để chuẩn bị cho công việc thiêng liêng. Người đọc bị cuốn chặt vào giây phút thiêng liêng của cái đẹp chiến thắng. Không phải ngẫu nhiên, nhà văn để Huấn Cao trong một tư thế cổ đeo gông, chân vưóng xiềng. Có một điều dường như nghịch lí. Nguời tù bị kiềm toả bởi gông cùm mà ung dung, đường hoàng. Còn quản ngục, thơ lại vốn là những kẻ có quyển và hoàn toàn tự do thì khúm núm, run run. Vận dụng bút pháp tương phản của chủ nghĩa lãng mạn dể dụmg cảnh, dựng người với Nguyễn Tuân đã thật điêu luyện, như thấm vào từng câu chữ. Tất cả thủ pháp nghệ thuật đều tôn lên vẻ đẹp của sáng tạo nghệ thuật và thiên lương con người. Giây phút cuối đời của tử tù không phải là những lời than thở. Khoảnh khắc thiêng liêng nhất, con người ấy vẫn dành cho cái đẹp. Thoi mực, thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm từ chậu mực bốc lên không? Hương thơm của mực hay cái sánh quyện của tâm hồn. Ngỡ như vẻ đẹp tâm hồn Huấn Cao đã vương hương vào hai câu văn ấy. Đẹp như một câu thơ bởi câu văn là chất thơ của lòng người. Thói thường, cận kề cái chết, người ta hay run sợ, làm sao có thể nghĩ đến cái gì lớn hơn bản thân mình. Nếu không có một bản lĩnh sống cao đẹp, một lí tưởng cao cả, Huấn Cao đâu có thể thốt ra những lời di nguyện thiêng liêng, cao đẹp như thế. Đoạn văn là sự tụ họp của cái đẹp. Chính cái đẹp đã đảo lộn vị thế giữa tử tù và quản ngục, xoá đi khoảng cách của chức vị để ba cái đầu người đang chăm chú đã trở thành biểu tượng của sự cảm hòa kì diệu. Những câu văn lặng đi trong không khí thiêng liêng. Hình ảnh tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ ám ảnh như cái trong trẻo, thanh sạch của những con người tri kỷ. Ngục tù, tối tăm có thể đè nát, dìm tắt cái đẹp hay không? Câu trả lời ở ngay trong khoảnh khắc thiêng liêng cuối cùng này. Giây phút ngắn ngủi của đời người, Huấn Cao đã di nguyện cho người ở lại lòng yêu mến cái đẹp. Không phải chỉ là cái đẹp định hình trong nét chữ mà còn là cái đẹp thoát bay từ tâm hồn, từ thiện lương trong sáng. Cái chết của Huấn Cao làm tái sinh sự sống và làm hồi sinh thiên lương quản ngục. Vậy nên cái chết ấy đâu phải vô nghĩa. Chỉ dòng nước mắt chan chứa của quản ngục thôi cũng lấp lánh biết bao vẻ đẹp của hinh người. Đó không phải giọt nước mắt của đau đớn, ngậm ngùi, nó lăn tròn, óng ánh và mặn nồng cảm xúc. Lời bái lĩnh chứ không phải xin līnh ý. Đến đây, quản ngục đã bị cảm hoá hoàn toàn, đâu giản đơn là sự thuần phục của lí trí mà là bao yêu mến đang tràn ngập con tim. Có lẽ chỉ ngần ấy thôi là đủ, nếu thêm một đoạn như lần in đầu tiên, tác phẩm sẽ mất đi ý vị dư ba nhiều lắm. Sự cảm động này khiến người đọc nhớ đến dòng nước mắt của những đao phủ khóc cho Ri-va-rếch trong tiểu thuyết Ruồi trâu. Thế mới hay, cái đẹp của thiên tính mãi mãi có sức cảm hoá kì diệu, đông hay tây, xưa hay nay cũng vậy. Đoạn văn khép lại mà có lẽ dòng nước mắt rỉ thấm nghẹn ngào vẫn chưa ngừng chảy. Nó lan vào trái tim người đọc. Hẳn là Nguyễn Tuân, người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp, tái sinh cái đẹp trong nghệ thuật, đã thoả nguyện khi viết những dòng văn sáng đẹp này. Hấp dẫn người đọc bởi vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật, đoạn văn của Nguyễn cứ mãi ám ảnh tâm hồn người đọc. Từ trang văn, cái đẹp thoát bay từ trái tim tử tù quản ngục đã cảm hoá sâu xa lòng người. Dấu ấn Nguyễn Tuân, dấu triện phong cách Nguyễn Tuân cũng vì thế mà in đậm mãi trong cảm nhận của người đọc. Nếu không say mê cái đẹp, yêu thương con người liệu nhà văn có tạo ra trang viết giá trị nhân văn đến thế. Cứ lắng lại dư vị của thiêng liêng, của vẻ đẹp. Nét thăng hoa của con chữ, lòng người. Những câu văn đầy giá trị tạo hình, trang trọng mà lại láng như một khúc thơ. Khúc thơ của cái đẹp, bản giao hưởng hài hoà của tài năng và tấm lòng nghệ sĩ. (Bài đoạt giải Nhất, 18/20 điểm)
NHẬN XÉT
Nhìn một cách bao quát, bài làm đã đáp ứng được khá tốt yêu cầu của đề bài. Văn viết chững chạc, sáng tạo và giàu chất văn. Ở câu 1, người viết đã hiểu chính xác ý kiến của nhà phê bình Hoài Thanh, trình bày được những hiểu biết sâu sắc vẻ vấn đề tiếp nhận văn học và những khía cạnh cơ bản của phong cách nghệ thuật. Kiến thức văn học, trong đó đặc biệt là kiến thức về lí luận văn học khá phong phú, chắc chắn và đáng quý hơn là những kiến thức này đã được vận dụng nhuần nhuyễn và có hiệu quả. Trong suốt quá trình làm bài, người viết luôn bám sát vấn đề đặt ra ở để bài với hệ thống luận điểm rõ ràng, lí lẽ sắc sảo. Đặc biệt tỏ ra thông minh và có năng khiếu văn chương trong việc lựa chọn và thẩm bình dẫn chúng. Việc sử dụng thao tác nghị luận so sánh nhuần nhuyễn khiến cho bài viết có chiều sâu với những phát hiện mới mẻ. Tuy nhiên, nếu nhấn thêm một chút nữa về sự gặp gỡ tri âm giữa người sáng tác và người tiếp nhận văn học thì thiết nghĩ bài viết sẽ thuyết phục hơn. Ở câu 2, người viết bước đầu đã có kỹ năng phân tích một đoạn văn xuôi nghệ thuật, biết thông qua vẻ đẹp của hình thức để làm nổi bật nội dung của đoạn văn, Tuy nhiên, so với câu 1, văn viết có phần non tay hơn, đôi chỗ câu văn còn mờ nghĩa. Thêm nữa, do chưa đặt đoạn văn trong chỉnh thể tác phẩm nên cũng chưa làm nổi bật được chủ đề tư tưởng và thấy rõ phong cách nghệ thuật của tác giả, những sáng tạo độc đáo của Nguyễn Tuân tạo nên sức hấp dẫn cho đoạn văn cũng chưa được bàn sâu và nói hết. Phần I. Đọc hiểu (3 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: Em là ai ? Cô gái hay nàng tiên Thịt da em hay là sắt là đồng ? Cho tôi hôn bàn chán em lạnh ngắt Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung Ôi trái tim em trái tim vĩ đại Còn một giọt máu tươi còn đập mãi Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời Cho quê hương em. Cho Tổ quốc, loài người! (Người con gái Việt Nam, Tố Hữu, Gió lộng, NXB Văn học, 1961) Câu 1: Đoạn trích trên được sáng tác vào giai đoạn văn học nào? Câu 2: Hình tượng nhân vật trung tâm của đoạn thơ là ai? Hình tượng nhân vật ấy được tác giả thế hiện với thái độ gì? Câu 3: Anh (chị) hãy chỉ ra và phân tích giá trị của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng ở đoạn thơ đầu. Câu 4: Trong khoảng từ 5 – 7 dòng, trình bày suy nghĩ của anh chị về vấn đề lẽ sống của tuối trẻ được đặt ra trong khổ thơ cuối cùng của đoạn trích . Phần II. Làm văn (7 điểm) Câu 1 (2 điểm): Bằng đoạn văn khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của anh (chị) về bài học mà người cha muốn nói với con trong bài thơ sau: Chẳng ai muốn làm hành khất Tội trời đày ở nhân gian Con không được cười giễu họ Dù họ hôi hám úa tàn Nhà mình sát đường họ đến Có cho thì có là bao Con phải răn dạy nó đi Nếu không thì con đem bán Mình tạm gọi là no ấm Ai biết cơ trời vần xoay Lòng tốt gửi vào thiên hạ Biết đâu nuôi bố sau này… (Dặn con, Trần Nhuận Minh) Câu 2 (5 điểm): Có ý kiến cho rằng: Sông Hương là bản tình ca ca ngợi về thiên nhiên và văn hóa xứ Huế. Qua phân tích tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường), hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. |
THẦY KHƯƠNG TRÊN FACEBOOK
|