Bài văn đạt giải quốc gia năm 2007( BÀI LÀM SỐ 3)
Không có phản hồi
Bài văn đạt giải quốc gia năm 2007( BÀI LÀM SỐ 3)
Câu 1. “Sứ mệnh chân chính của con người là sống chứ không phải tồn tại.” (J. London) Tôi đã rất tâm đắc với câu nói ấy của nhà văn nổi tiếng . Đúng là như thế. Được sinh ra và được sống trên đời là một niềm hạnh phúc lớn lao nhưng sống như thế nào lại là một vấn đề. Lẽ nào chúng ta cứ để mặc cho gió thổi mây trôi, chịu làm kiếp cây cỏ, phù du. Không, giữa một thế giới luôn vận động, biến đổi không ngừng này, chúng ta phải nắm bắt mọi điều trong tư thế làm chủ. Có lẽ vì thế mà trong việc nhận thức, F. Ăng ghen có phương châm: Thà phải tìm hiểu sự thật suốt đêm còn hơn phải nghi ngờ nó suốt đời, còn C. Mác thích câu châm ngôn: Hoài nghi tất cả. Một người thì mày mò, quyết tâm dấn thân vào con đường đầy chông gai để tìm hiểu sự thật, còn một người lại tâm niệm phải hoài nghi hết thảy mọi việc. Chúng ta đều biết Mác và Ăng-ghen là đôi tri kỷ mà tình bạn của họ có thể làm rung chuyển cả chủ nghĩa tư bản. Lẽ nào ở đây cả hai bậc vĩ nhân ấy lại đưa ra những quan điểm trái chiều. Thà phải tìm hiểu sự thật suốt đêm còn hơn phải nghi ngờ nó suốt đời – phải chăng đây chính là chí hướng của một người luôn đi tìm chân lí, lẽ phải. Người ta quan niệm đã đi thì phải dấn bước đến cuối cuộc hành trình. Sự thật nằm trong những mơ hồ, nghi hoặc. Chúng ta cần phải đào sâu tìm kiếm, bất chấp mọi gian khổ khó khăn như thế mới mong tìm ra chân lí cuối cùng. Trong khi Ăng-ghen là người luôn tôn trọng sự thật hết mực như vậy thì C. Mác lại muốn hoài nghi tất cả. Xét đến cùng, hai ý kiến ấy mới nghe tưởng chừng mâu thuẩn song lại rất thống nhất.
Con người là một cá thể sống, nhưng khác với những loài sinh vật vô tri khác là chúng ta không hề thụ động, đón nhận những ảnh hưởng từ bên ngoài. Thuở hồng hoang, tổ tiên của loài người đã phát hiện ra ngọn lửa của sự sống để thoát khỏi sự ăn lông ở lỗ trong các hang tối chỉ với hai hòn đá cọ xát vào nhau. Con người từ khi ấy đã luôn có nhu cầu tìm hiểu, khao khát nắm bắt hoàn cảnh. Xã hội càng phát triển, uớc muốn nhân bản đó càng lớn mạnh. Con người hiện đại không chịu khuôn minh trong những phép tắc, những định kiến áp đặt. Họ dám đấu tranh đến cùng, thậm chí chấp nhận hi sinh để bảo vệ chân lí. Như Cô-péc-ních quyết bước lên giá treo cổ chống lại giáo hội chỉ vì ông muốn chứng minh một sự thật rằng: mặt trời là trung tâm và các hành tinh khác kể cả trái đất phải quay quanh nó (thuyết nhật tâm). Sự hoài nghi khoa học và khao khát tìm ra chân lí cuối cùng có cội rễ sâu xa từ một con người thực sự ý thức được về giá trị của sự thật, luôn muốn được công nhận và khẳng định một cách chính đáng. Vâng, nếu chúng ta cứ mãi chìm sâu trong một mớ lí thuyết màu xám mà không tự thân vận động, tìm hiểu những căn nguyên bên trong của nó thì cũng chính là ta đang tự đốt cháy mình. Xã hội sẽ không thể phát triển, nâng tầm khi vẫn tồn tại những cá nhân thụ động tiếp nhận mọi điều mà người khác áp đặt cho mình, sẵn sàng chấp nhận và nghe theo ngay cả những điều trái sự thật. Xã hội ngày nay là một thế giới hiện đai. Con người đang sống trong một môi trường sôi động, với nhip quay hối hả của máy móc và các phương tiện kĩ thuật cao. Bạn biết không, cứ năm giây lại có một sản phẩm công nghệ mới ra đời, thay thế những cái cũ. Chẳng lẽ chúng ta cứ chịu đứng ngoài cái vòng xoáy ấy để nhìn mọi vật trôi đi hay sao? Tìm hiểu sự thật và hoài nghi tất cả biểu hiện ở việc con người luôn đặt ra những câu hỏi và trả lời cho những câu hỏi đó. Đấy là chúng ta đang tham gia vào một hành vi sáng tạo, khơi dậy năng lực tiểm ẩn trong mỗi con người. Có một bộ óc sáng suốt, một lí trí tỉnh táo để điều khiển nhận thức và hành động, con người sẽ góp phần làm cho cuộc sống này thêm đủ đầy, tươi đẹp hơn. Có thể bạn cho rằng những gì tôi đang nói là lập thuyết, là giáo điều nhưng bạn ạ, chỉ khi nào là một người trong cuộc như tôi, như bạn mới có thể hiểu đưoc sự quan trọng của điều ấy. Tôi không phủ nhận một điều rằng mình là một người hay áp đặt suy nghĩ lên người khác. Tôi luôn cho rằng mình là đúng và sáng suốt nhất. Mỗi khi dạy em học bài, chẳng có gì làm tôi sung sướng, thoả mãn hơn là đưa ra được cách giáo hay nhất cho một bài toán khó. Nhưng một hôm, khi thầy giáo cho em tôi một để khả hóc búa về nhà, sau khi suy nghĩ một lúc tôi tìm thấy cách giải tuy hơi dài nhưng lại cho ra đáp án đúng. Tôi mãn nguyện vô cùng và tưởng tượng ra cậu em yêu quý sẽ phải biết ơn tôi như thế nào về điều đó. Nhưng trái lại, nó vẫn băn khoăn, nhìn chăm chú vào vở. Một lát, nó quay lại bảo tôi, dường như vẫn còn một cách khác ngắn hơn. Tôi tức giận và bỏ ra ngoài vì tự ái, lẽ nào cậu nhóc lớp bảy ấy lại có thể hơn tôi được ư? Suốt cả bữa cơm tối, em tôi không rời khỏi bàn học. Nó miệt mài với những con số dày đặc, quyết tìm cho ra cách giải theo linh cảm của mình. Cuối cùng đến tối muộn, nó đưa vở cho tôi với vẻ mặt sung sướng. Tôi phải công nhận rằng đó là một cách giải hay và khúc chiết. Sự tự ái vặt bay di đâu hết, tôi vuốt má em tôi với niềm tự hào khôn xiết: “Em đã cho chị một bài học rồi đấy, cưng ạ!”. Như vậy, muốn sống được là chính mình thì bạn phải luôn ý thức khơi nguồn sự thật. Tuy nhiên, tìm hiểu sự thật, hoài nghi tất cả cũng không có nghĩa là sự cố chấp, một mực chối bỏ những ý kiến đóng rắn của người khác. Làm như vậy con người chỉ càng thêm nhỏ bé hơm vì lối sống vị kỉ, tầm thường. Đi bạn ơi, đi! Sống đủ đầy – Sống trào sinh lực, bốc men say. Yêu biết mấy những câu thơ như có lửa của nhà thơ Tố Hữu. Nó nhắc ta phải sống hết mình, vừa mở rộng vòng tay đón chào cuộc sống vừa tỉnh táo suy xét, lắng nghe mọi vang động từ bên ngoài. Vâng, phải sống sao để có thể làm chủ bản thân, cho mỗi ngày đến là một nụ cười tự tin, rạng rỡ, cho mỗi đêm về ta không phải hối tiếc vì những giây phút đã trôi qua một cách phí uổng.
Câu 2. Một tác phẩm nghệ thuật chân chính không bao giờ kết thúc ở trang cuối cùng (Ai-ma-tốp, Con tàu trắng). Bằng những trải nghiệm của một đời cầm bút, nhà văn Ai-ma-tốp đã đem đến cho chúng ta chân lý muôn đời về sức sống trường cửu của văn chương nghệ thuật. Còn nhớ một câu hát rằng: Người đã ra đi khó thể trở lại, vâng con người ta sinh ra từ cát bụi và rồi lại trở về cát bụi, nhưng dư âm còn lại chính là những thông điệp nhân sinh mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm. Nó có sức mạnh tạo nên những cuộc đối thoại miên man bất tận. Chính vì thế có ý kiến cho rằng: Khi tác phẩm kết thúc, ấy là lúc cuộc sống của nó mới thực sự bắt đầu. Bất tử, vĩnh hằng, vượt thoát khỏi sự băng hoại của thời gian, đó luôn là một niềm hạnh phúc lớn lao đồng thời cũng là một sứ mệnh đau đớn không thể chối từ khi nhà văn sáng tạo nên tác phẩm. Người ta thường nói vui: “chết là hết” nhưng ý kiến cho rằng khi tác phẩm kết thúc, ấy là lúc cuộc sống của nó mới thực sự bắt đầu, phải chăng đang đi ngược lại diều đó. Quả là một cú lội ngược dòng ngoạn mục để chống lại bàn tay thần chết. Ý kiến ấy bàn đến sức sống của văn học đồng thời gắn với quy luật tiếp nhận của độc giả. Vậy trước hết ta phải hiểu khái niệm: Tác phẩm văn học là gi? Mỗi tác phẩm là một văn bản ngon từ hoàn chỉnh mà thông qua nó, nhà văn muốn gửi gắm những suy ngẫm, cách đánh giá của mình về thế giới và nhân sinh. Công việc sáng tác ấy cũng như một trò chơi ngôn ngữ đẩy biến ảo mà ở đó nhà văn phải đặt ra luật chơi cho chúng. Nghĩa là anh ta từ đống quặng thô ráp, bộn bề của cuộc sống, thông qua quá trình chế ngự chất liệu, vật liệu để tổ chức hệ thống hình tượng, sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật và sắp xếp ngôn từ, anh sẽ tạo nên một chất kim quý giá – tác phẩm văn chương. Tuy nhiên, từ khi nhà văn cất bút viết những con chữ đầu tiên cho đến khi hạ phẩm là một văn bản mở, chỉ khi nào có sự đánh giá tiếp nhận từ nhiều hướng của độc giả thì nó mới trở thành một tác phẩm nghệ thuật theo đúng nghĩa. Nói như M. Go-ro-ki thì: Nhà văn là người sáng tạo ra tác phẩm nhưng chính người đọc tạo nên số phận cho nó. Bằng trình độ và vốn hiểu biết của mình, người đọc đi sâu vào tác phẩm dùng trí tưởng tượng phong phú để tái hiện hình ảnh cuộc sống được phản ánh. Tuy có nhiều cách hiểu khác nhau nhưng tựu trung lại đều không nằm ngoài cái ý cốt lõi ban đầu của tác giả. Như loài hoa phải nhờ đến những cánh bướm mới có thể khoe sắc, khoe hương, tác phẩm văn học cũng vậy. Sáng tạo nghệ thuật là hành trình vươn tới tự do, còn tiếp nhận văn học cũng là sự khao khát huớng tới khám phá chân trời tự do Nói như Ê-go I-sa-ép: cuộc sống trong ngôn từ lâu dài hơn bản thân đời người, bởi khi khép trang sách lại, người đọc vẫn không ngùng miên man nghĩ về những câu chuyện mà nhà văn đã gợi ra và dường như còn bỏ lửng. Thiết nghĩ, văn chương không thể tự nó vượt thời gian mà phải bay lên nhờ đôi cánh của người đọc. Hiện thực cuộc sống vốn dĩ phong phú muôn màu, khi đi qua lăng kính sáng tạo của nghệ sĩ lại càng thêm lung linh nhiều góc cạnh. Tiếp nhận văn học hay cảm thụ văn học chính là sống hết mình với nó, rung động tận độ với tác phẩm, vừa đắm mình trong thế giới nghệ thuật của nhà văn vừa tỉnh táo lí trí lắng nghe tiếng nói của tác giả. Một người đọc thông minh sẽ biết xem xét tác phẩm ở mọi ngóc ngách, phương diện, như đang cầm trên tay một khối vuông ru-bích mà xoay nó theo nhiều chiều. Ở mỗi góc độ ta lại khám phá ra những nội dung mới lạ. Chính vì thế mà có người cho rằng, xét đến cùng thì lịch sử văn học cũng chính là lịch sử của quá trình tiếp nhận. Ai đó đã nói: Viết hay là không nói hết. Nhà văn phải là người trao cho độc giả chiếc chìa khoá vàng để mở cánh cửa đi vào tác phẩm, còn mở được đến đâu thì điều đó phụ thuộc vào trình độ giải mã các kí hiệu thẩm mĩ, vào tri thức, vốn sống và trí tưởng tượng của người đọc. Vì thế, có nhiều ý kiến thậm chí trái chiếu được đưa ra về cùng một tác phẩm. Ai cũng biết Truyện Kiều của Nguyễn Du là kiệt tác thiên thu tuyệt diệu từ nhưng xung quanh tác phẩm cũng có những đánh giá mâu thuẫn. Các nhà phê bình hiện đại với cảm quan tiến bộ nhìn cuộc đời Kiều như một tấm gương oan khổ nhưng đồng thời cũng là một viên ngọc, một bông sen gần bùn mà chẳng hỏi tanh mùi bùn: Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc Sắc tài sao mà lắm truân chuyên (Chế Lan Viên) Thế nhưng, nhà nho Nguyễn Công Trứ lại viết những câu thơ oán trách: Bạc mệnh chẳng låm người tiết nghĩa Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm Hai cái nhìn hoàn toàn khác nhau do bị chi phối bởi thời đại và xã hội. Có phải thế chăng mà không bao giờ có được tiếng nói cuối cùng trong nghệ thuật. Cũng có những tác phẩm ngay khi ra đời đã được chào đón nhưng cũng có những trường hợp bị chê trách, sau đó mới được nhìn nhận đánh giá lại như tác phẩm Bà Bô-la-ry của Phlo-be hay An-na Ka-rê-ni-na của L. Tôn-xtôi. Trong văn học Việt Nam, Vũ Trọng Phụng với tác phẩm Số đỏ cũng là một điển hình tiêu biểu. Khi đứa con tinh thần của Vũ chào đời, nó đã bị quy kết là dâm thứ và mãi đến sau này có một thời người sinh ra nó còn bị đánh đồng với nhóm Nhân văn giai phẩm. Cho đến mấy chục năm sau, đứa con nghịch tử ấy mới được đưa vào giảng dạy trong nhà trường bởi sự thức nhận giá trị hiện thực sâu sắc cùng bút pháp trào phúng sắc sảo có một không hai của một tác phẩm ghê gớm có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học (Nguyễn Khải) này. Có thể nói, tiếp nhận tác phẩm chính là công đoạn cuối cùng trong cuộc hành trình sáng tạo đầy gian truân, khó nhọc. Bằng trái tim và khối óc, người đọc thâm nhập vào tầng sâu của văn bản để khôi phục lại những nét mờ, lấp đầy những khoảng trống, làm hồi sinh tác phẩm một lần nữa, biến nó thành một sinh thể sống có số phận, có suy nghĩ và nhận thức. Nói như Lưu Hiệp trong thiên Tri âm của Văn tâm điêu long: Người làm văn tình cảm rung động mà phát ra lời, người xem văn phải rẽ văn để thâm nhập vào tác phẩm. Người nghệ sĩ muốn cho đứa con tinh thần của mình có thể bất tử được với thời gian phải tạo nên mối đối thoại nhiều chiều với độc giả, phải tuân thủ theo nguyên lí tảng băng trôi với bảy phần tám tảng băng trôi dưới nước để cho một phần lộ ra. Cây bút tài hoa là người biết tạo cho tác phẩm những khoảng trống, những nốt lặng để người đọc tha hồ khám phá. Ngay chi với một Đôn Ki-hô-tê nhưng Xéc-van-tét da tạo cho ngưoi doc nhiều cách hiểu. Đối với người Tây Ban Nhac thì đó là một người điên, buồn cười nhưng với người Anh thì Đôn Ki-hô-tê lại là một bi kịch. Trong khi đó, những nhà nghiên cứu mang cảm quan hiện thực chủ nghĩa lại cho nhân vật này là sự hạ bệ lí tưởng anh hùng phi thực tế, ảo tưởng… Trước sự ra đi của một nhà văn ta nghĩ đến sự bất tử của một ngòi bút. Như những ngôi sao băng đã kịp loé rạng một lần trước khi tắt, bằng tác phẩm văn học, người nghệ sĩ chân chính đã để lại cho bạn đọc một lẽ sống cao cả của tâm hồn. Đời xa, không ai thấy mặt nhà văn nhưng khi xem văn liền thấy lòng của họ. Tôi nghĩ như vậy. Câu 3. Văn Thạch Lam là thứ hương hoàng lan thanh cao được chưng cất từ những nỗi đời. Nếu bạn là một người yêu văn Thạch Lam tha thiết, chắc hẳn bạn không thể quên cái hơn thơ nhẹ nhàng, lan toả và cái chất ngot ngào lắng dịu bay lên từ những trang văn ấy. Là cây bút chủ soái của văn học lãng mạn, song văn Thạch Lam không ru ngủ mà lay tinh ta từ những số phận bất hạnh, khổ đau. Yêu Thạch Lam, ta không thể không biết đến truyện ngắn Hai đứa trẻ. Đoạn văn từ “Chuyến tàu đếm nay không đông như mọi khi” cho đến “…đồng ruộng mênh mang và yên lặng” là điểm sáng tập trung nhất, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam và tư tưởng nhân đạo của ông trong đoản thiên trữ tình giống như một áng thơ này. Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ – Thạch Lam đã đem trái tim nhân ái bao la của mình để thấp lên ngọn lửa bất diệt của tình yêu thương con người, làm cho cuộc đời này có nhiều công bằng và yêu thương hơn. Những trang văn giàu chất thơ, dịu dàng như cánh bướm non và vô cùng nhân bản ấy, ai đọc mà không yêu, không nhớ? (Bài đoạt giải Nhì – 17/20 điểm)
NHẬN XÉT
Những yêu cầu đặt ra trong đề bài đã được bài làm đáp ứng ở mức độ khá tốt. Ở câu 1, hiểu đúng thông điệp trong câu nói của C. Mác và Ăng-ghen, người viết xã luận bàn khá thuyết phục về mối quan hệ giữa việc tìm hiểu sự thật và sự hoài nghi trong cuộc sống bằng vốn tri thức đời sống khá sâu rộng. Bố cục bài viết rõ ràng, lập luận khá chặt chẽ, diễn đạt tương đối trôi chảy. Tuy nhiên, nhiều chỗnbàn luận còn chưa thấu đáo, nhiều đoạn viết hơi vội, có phần sơ sài. Ở câu 2, bài viết ít nhiều bộc lộ năng lực văn chương rất đáng trân trọng. Hiểu biết khá sâu về vấn để tiếp nhận văn học lại có kiến thức phong phú về tác phẩm văn chương nên người viết đã khá linh hoạt và hiệu quả trong việc làm sáng tỏ mối liên hệ giữa nghệ thuật và đời sống, giữa sáng tạo và tiếp nhận văn học, vai trò của chủ thể tiếp nhận người đọc. Có nhiều đoạn khá thú vị vì biết dẫn dắt vấn đề hợp lí như: “Nói như Lưu Hiệp trong thiên “Tri âm” của “Văn tâm diêu long”: “Người làm văn tình cảm rung động mà phát ra lời, người xem văn phải rẽ văn để thâm nhập vào tác phẩm”. Người nghệ sĩ muốn cho đứa con tinh thần của mình có thể bất tử được với thời gian phải tạo nên mối đối thoại nhiều chiều với độc giả, phải tuân thủ theo nguyên lí “tảng băng trôi” với bảy phần tám tảng băng trôi dưới nước để cho một phần lộ ra. Cây bút tài hoa là người biết tạo cho tác phẩm những khoảng trống, những nốt lặng để người đọc tha hồ khám phá”. Ở câu 3, với khả năng cảm thụ văn chương khá tốt, người viết đã tạo nên một bài văn cảm thụ giản dị, nhẹ nhàng cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Liên và phần nào vẻ đẹp của văn chương Thạch Lam. Tuy nhiên, có lẽ do hạn chế về thời gian nên cảm giác chung việc trình bày cảm nhận về vẻ đẹp của văn Thạch Lam còn sơ sài. Sức hấp dẫn của bài viết do đó có phần sút giảm. Đáng tiếc thay.
Phần I. Đọc hiểu (3 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: Em là ai ? Cô gái hay nàng tiên Thịt da em hay là sắt là đồng ? Cho tôi hôn bàn chán em lạnh ngắt Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung Ôi trái tim em trái tim vĩ đại Còn một giọt máu tươi còn đập mãi Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời Cho quê hương em. Cho Tổ quốc, loài người! (Người con gái Việt Nam, Tố Hữu, Gió lộng, NXB Văn học, 1961) Câu 1: Đoạn trích trên được sáng tác vào giai đoạn văn học nào? Câu 2: Hình tượng nhân vật trung tâm của đoạn thơ là ai? Hình tượng nhân vật ấy được tác giả thế hiện với thái độ gì? Câu 3: Anh (chị) hãy chỉ ra và phân tích giá trị của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng ở đoạn thơ đầu. Câu 4: Trong khoảng từ 5 – 7 dòng, trình bày suy nghĩ của anh chị về vấn đề lẽ sống của tuối trẻ được đặt ra trong khổ thơ cuối cùng của đoạn trích . Phần II. Làm văn (7 điểm) Câu 1 (2 điểm): Bằng đoạn văn khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của anh (chị) về bài học mà người cha muốn nói với con trong bài thơ sau: Chẳng ai muốn làm hành khất Tội trời đày ở nhân gian Con không được cười giễu họ Dù họ hôi hám úa tàn Nhà mình sát đường họ đến Có cho thì có là bao Con phải răn dạy nó đi Nếu không thì con đem bán Mình tạm gọi là no ấm Ai biết cơ trời vần xoay Lòng tốt gửi vào thiên hạ Biết đâu nuôi bố sau này… (Dặn con, Trần Nhuận Minh) Câu 2 (5 điểm): Có ý kiến cho rằng: Sông Hương là bản tình ca ca ngợi về thiên nhiên và văn hóa xứ Huế. Qua phân tích tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường), hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. |
THẦY KHƯƠNG TRÊN FACEBOOK
|