Bài văn đạt văn quốc gia năm 2008 (BÀI LÀM SỐ 2)
Không có phản hồi
Bài văn đạt văn quốc gia năm 2008 (BÀI LÀM SỐ 2)
Câu 1. Có những tình yêu không bộc lộ một cách trực tiếp thành những lời nói khiến người khác hài lòng. Có những tình yêu phải trải qua năm tháng ta mới cảm nhận được một cách sâu sắc và thấy nó thật lớn lao. Trong những tình yêu ấy có tình mẫu tử như lời người mẹ trong bài Mẹ yêu con tâm sự: Nhưng trên tất cả, mẹ yêu con nên mẹ nói “không” trước những đòi hỏi vô lí của con khi mẹ biết con sẽ ghét mẹ về những điều này. Đây là cuộc đấu tranh khó khăn nhất trong cuộc đời của mẹ. Nhưng mẹ vui vì mẹ đã chiến thắng và cuối cùng con đã thành đạt. Tình mẫu tử là một tình cảm cao đẹp trong quan hệ gia đình. Mẹ mang nặng đẻ đau, nuôi nấng dạy dỗ con nên người, bởi thế, với mẹ con là nguồn vui, là niềm hi vọng lớn nhất trong đời. Và những đứa con ngoan, có hiếu với mẹ cha là những con người đã nhận được tình yêu thương, sự chở che chăm sóc của cha mẹ, của gia đình, nhà trường và xã hội. Đó là mối quan hệ khăng khít làm nên vẻ đẹp trong quan hệ đạo đức giữa người với người trong cuộc sống. Cha ông xưa từng nói mẫu tử tình thâm. Không gì cao quý bằng tình mẫu tử. Tình mẹ sẽ theo con trong suốt cuộc đời. Trái tim người mẹ dường như luôn theo sát mỗi bước đường con di. Trong bài Mẹ yêu con, người mẹ nhắc tới rất nhiều việc mẹ đã từng làm. Thật vậy, mẹ sinh ra con phải trải qua cả một quá trình thai nghén, nuôi dạy con thành người với biết bao công sức, biết bao yêu thương. Mẹ chăm chút cho con từng bữa ăn, giấc ngủ. Những khi con yếu đau, mẹ luôn bên con, lo lắng cho con, động viên con… Những khi con có chuyện buồn, mẹ như người bạn lớn chia sẻ con. Mẹ như một “hậu phương” vững chắc nâng cánh cho con bay cao, bay xa với những ước mơ, hoài bão. Kể sao xiết những việc mẹ đã làm vì con. Đó có thể chỉ là những hành động thật nhỏ bé, giản dị, hay có thể là những việc làm lớn lao… Nhưng tất cả những việc làm ấy đều là thiêng liêng cao cả vì ẩn trong đó là biết bao yêu thương của mẹ. Mẹ như một bến bờ bình yên nhất mà mỗi đứa con như một con thuyền đi xa cần cập bến để tiếp thêm nhựa sống. Không có mẹ, cuộc đời con sẽ trở nên tăm tối. Thiếu đi tình yêu thương, thiếu bàn tay chăm sóc vuốt ve của có thể con sẽ trở thành những cây dại trên đất hoang khô cằn sự sống… Mẹ yêu con, mẹ yêu con như trời cao biển rộng. Nói trời cao biển rộng vậy thôi, chứ ai đo được độ cao rộng ấy. Tình mẹ cũng vậy mênh mông và vô tận, vô cùng Nhưng tình yêu con ở mỗi người mẹ lại có những sắc thái biểu hiện khác nhau. Có những người mẹ yêu con nhất nhất chiều theo những đòi hỏi của con. Lại có những người mẹ yêu con mà vẫn biết nói không với những đòi hỏi vô lí của con. Trên tất cả những việc mẹ đã làm cho con, mẹ yêu con nên mẹ nói “không” với những đòi hỏi vô lí của con. Trẻ con thường có những yêu cầu, đòi hỏi nhiều khi không chính đáng, không phù hợp do chưa ý thức được hết những đòi hỏi của mình. Nhiều người mẹ yêu con một cách mù quáng nên hễ con đòi gì là sẵn sàng đáp ứng ngay. Việc nói không với những đòi hỏi ấy không phải bất cứ người mẹ nào cũng làm được và thường xuyên làm được. Nói không với đòi hỏi vô lí của con cũng có nghĩa là mẹ đang ngăn trở con trước những nhu cầu không hợp lí, uốn nắn con di dúng con đường sáng để đi tới sự thành đạt. Nhiều đứa trẻ muốn đi chơi khi bài vở còn dang dở và nản chí, nhụt lòng trước những khó khăn. Những khi ấy, mẹ lại bên con, lại can ngăn, nhắc nhở con… để con vững bước, lấy lại niềm tin và ý chí… Người mẹ yêu con luôn có một giác quan thứ sáu, một giác quan dường như để dành riêng cho con, để nhận ra những biểu hiện trong tâm lí của con. Khi mẹ nói không với đòi hỏi vô lí của con, mẹ biết rằng con sẽ ghét mẹ về những điều này. Phải, trẻ con thường như vậy, dễ yêu và dễ ghét. Có khi chỉ vì một mong muốn không được đáp ứng, con thấy ghét mẹ, con hờn dỗi mẹ… Đó là những yêu ghét bổng bột, cảm tính của trẻ con. Nhưng chính những hờn dỗi ấy của con đã làm mẹ buồn, làm mẹ đau lòng. Mà có người mẹ nào muốn thấy con mình buồn đâu? Bởi thế, nhiều người mẹ mặc dù đã nói không với những đòi hỏi vô lí của con, nhưng khi thấy con không hài lòng thì lại mềm lòng chiều theo những đòi hỏi ấy. Người mẹ ở đây đã trải qua cuộc đấu tranh khó khăn nhất trong cuộc đời của mẹ để giữ vững chính kiến của mình. Đó là cuộc dấu tranh diễn ra trong chính lòng mẹ. Mẹ đấu tranh để thể hiện tình yêu con, để lo cho con khôn lớn thành người. Trong cuộc đời, mỗi con người phải đấu tranh với biết bao những khó khăn, thử thách. Nhưng người mẹ ở đây lại khẳng định cuộc đấu tranh để nói không với những đòi hỏi vô lí của con là cuộc đấu tranh khó khăn nhất đời mẹ. Sự giằng xé trong nội tâm của người mẹ trước một lời nói từ chối đòi hỏi vô lí của con là sự giằng xé cam go nhất. Những khi con muốn mẹ làm điều này, điểu khác mà lương tâm mẹ không cho phép, những khi con có những đòi hỏi vô lí vượt ngoài khả năng của mẹ và không phù hợp với con… Những khi ấy, mẹ nói không với con cũng có nghĩa là tình yêu của mẹ đã chiến thắng. Đó là tình yêu cao cả nhất. Yêu con nhưng không phải mẹ chỉ yêu bằng trái tim mà yêu bằng cả lí trí tỉnh táo để nhận ra khuyết điểm của con, để uốn nắn cho con nên người. Không phải người mẹ nào cũng có thể làm được điều ấy. Mẹ không chiều theo đòi hỏi của con, không phải vì mẹ không yêu con mà bởi bằng trí tuệ và sự từng trải của mẹ, mẹ nhận ra những đòi hỏi ấy là vô lí, là không chính đáng. Khi nào con lớn lên, con sẽ hiểu được những hành động ấy của mẹ. Nói không với những đòi hỏi vô lí của con, mẹ đã phải đấu tranh, một cuộc chiến đấu khó khăn nhất để mẹ vượt lên tình yêu nhỏ bé, bình thường của người mẹ,… để cho con một tương lai tươi sáng. Có những đứa trẻ mắc những căn bệnh hiểm nghèo mà chính các em biết được rằng mình sẽ khó có thể vượt qua. Bởi thế mà em muốn mẹ hãy buông xuôi theo số phận… Những ước muốn như vậy rất trẻ con nhưng cũng thật cao cả… Nhưng có người mẹ nào lại cam chịu để cho con mình bệnh tật, để mất con mình? Và mẹ đã nói không với con bằng chính những hành động của mẹ. Mẹ ngược xuôi kiếm thầy, kiếm thuốc, xin sự giúp đỡ của những nhà hảo tâm… Mẹ làm tất cả để đem lại sự sống cho con, để nói không trước sự đầu hàng số phận của con. Và chính mẹ sẽ tiếp lửa sống, lửa yêu thương để con như cây non vươn lên đón ánh nắng mặt trời. Sự chiến thắng của mẹ chính là sự chiến thắng vinh quang nhất; chiến thắng nhưng không ồn ào, to tát, có khi chỉ mẹ và con biết, và cũng có khi con không hiểu được. Niềm vui của mẹ có thể rạng ngời trên gương mặt, có khi ẩn giấu sâu trong cõi lòng. Chỉ biết rằng trong lòng mẹ đang nở hoa… Và mẹ biết mẹ đã đúng khi biết kìm hãm những đòi hỏi vô lý của con. Có niềm vui nào lớn hơn niềm vui khi thay con thành đạt. Với mẹ, sự thành đạt của con chính là niềm động viên, an ủi giúp mẹ vừng tin hơn trong cuộc sống. Sự thành đạt ấy của con đã khẳng định sự giáo dục dạy dỗ của mẹ là đúng đắn. Và khi ấy, sự thành đạt của con chính là thành công lớn nhất trong cuộc đời của mẹ. Con có thể chỉ đạt được một kết quả nhỏ bé mà con chưa thật bằng lòng nhưng với mẹ, nhìn thấy con thành đạt, niềm vui đang nhân lên, và hi vọng, mong chờ, tin tưởng vào con cũng tăng dần. Sau mỗi thành công của con đều có thành công của mẹ. Mẹ theo bước con đi, âm thầm và lặng lẽ. Nhiều khi mẹ cương quyết, mẹ không chấp nhận những đòi hỏi của con. Đó chính là tình yêu bao la mà con đã được nhận từ mẹ – tình yêu giúp cho con gặt hái những thành công. Sự thành đạt của con chính là niềm vui lớn nhất trong cuộc đời của mẹ. Và mẹ tin rằng mẹ đã yêu con, yêu con thật lòng và đúng đắn… Lời tâm sự của người mẹ trong bài Mẹ yêu con sau khi nhắc tới bao việc mẹ từng làm vì con mà có thể con chưa hiểu đúng chính là sự giãi bày tấm lòng của mẹ, của biết bao bà mẹ trên trái đất này. Có thể hôm nay, con ghét mẹ vì những việc làm không đáp ứng đòi hỏi của con, nhưng ngày mai, khi con lớn lên, khi con biết được những dòng tâm sự này của mẹ, con sẽ hiểu tình mẹ dành cho con cao cả biết dường nào. Lời tâm sự ấy chân thành, sâu sắc và như một lời nhắn nhủ tới biết bao những đứa con đã từng ghét mẹ vì mẹ nói không trước những đòi hỏi vô lí của con. Con ơi, hãy hiểu cho mẹ, hãy cảm thông với mẹ me yêu con – tình yêu mà nhiều khi con không thể nhận ra. Đặc biệt, lời tâm sự này có ý nghĩa vô cùng to lớn với những người mẹ trong xã hội ngày nay. Mẹ yêu con, luôn mong muốn con được sống tốt nhất, mọi đòi hỏi của con được đáp ứng nhưng những người mẹ hãy không chỉ yêu bằng trái tim mà còn phải yêu bằng cả lí trí để giúp con trở thành một công dân tốt, một con người thành đạt. Ngày nay, nhiều người mẹ nuông chiều con quá mức, hễ con có yêu cầu gì là mẹ sẵn sàng đáp ứng mà không cần biết yêu cầu ấy có chính đáng hay không. Tình yêu mù quáng như vậy có thể sẽ làm hư đứa trẻ, và như thế, tình yêu không những không có tác dụng mà còn làm hại đến con. Bởi vậy, tình yêu của người mẹ phải vừa là tình yêu của người sẵn sàng làm tất cả vì con, vừa là tình yêu thật tỉnh táo để nhận ra những đòi hỏi vô lí của con để uốn nắn, dạy dỗ con nên người. Nói không với những đòi hỏi vô lí của con nhưng cũng không nên để con trẻ quá thất vọng và thấy bất mãn. Trái tim người mẹ có lẽ sẽ có những lí lẽ riêng để con vừa hiểu được đó là đòi hỏi vô lí vừa yêu mę hon, kính trọng mẹ hơn. Đó mới chính là nói không hợp lý nhất để định hướng cho con vững bước tương lai, giúp con tiến tới thành công. Tình mẫu tử thiêng liêng là tình cảm truyền thống của dân tộc Việt Nam nói riêng và toàn nhân loại nói chung. Ở nơi đâu cũng vậy thôi, mẹ luôn yêu con, luôn mong những điều tốt đẹp đến với con. Và khi lớn lên, con sẽ nhận ra tình yêu ấy cao cả và thiêng liêng hơn bất cứ thứ tình cảm nào. Nhà thơ Ê-xê-nin đã từng ca ngợi người mẹ của mình: Chi mình mẹ là niềm vui, ánh sáng diệu kì Chi mình mẹ nâng đời con vững bước. (Thư gửi mẹ) Ngàn đời mẹ yêu con, tình yêu thiêng liêng và cao cả. Những nỗi niềm tâm sự của mẹ, con có hiểu cho chăng? Hãy yêu mẹ như chính tình yêu mẹ đã dành cho con. Đó mới chính là sự đền đáp công ơn cao cả của Mẹ.
Câu 2. Thơ ca là điệu tâm hồn, là những xúc cảm thiêng liêng, mãnh liệt nhất của những người cầm bút. Sự sáng tạo trong thơ ca, nghệ thuật là quy luật của tình cảm con người. Khi tình cảm tự tìm cho nó một hình thức để bộc lộ ra ngoài, chúng ta có thơ đúng như lời của nhà thơ Ra-bin-đra-nát Ta-go. Ra-bin-tra-nát Ta-go là một nhà thơ lớn của Ấn Độ. Cả cuộc đời Ta-go cống hiến cho nghệ thuật, cho thơ ca. Câu nói này của Ta-go chính là một sự đúc rút những kinh nghiệm của nhà thơ về việc sáng tạo trong thơ ca. Khi tình cảm tự tìm cho nó một hình thức để bộc lộ ra ngoài chính là khi những rung động trong tâm hồn nhà thơ tìm được một cách thể hiện bằng câu chữ. Khi ấy, thơ ra đời. Nói đến tình cảm của con người là nói đến những gì sâu sắc ẩn chứa bên trong tâm hồn. Tình cảm ấy không chỉ có ở nhà thơ mà còn có ở tất cả mọi người. Những rung động trước cái đẹp, hay sự đau khổ, niềm vui sướng… đều là những trạng thái của tình cảm. Nhưng tình cảm của nhà thơ có điểm khác với những người bình thường. Đó là vì nó biết tự tìm một hình thức để bộc lộ ra ngoài. Nếu như chúng ta bộc lộ tình cảm bằng nét mặt, cử chỉ, hành động cụ thể thì nhà thơ biểu hiện tình cảm ấy qua văn bản ngôn từ. Tình cảm tự tìm lấy cho nó một hình thức để bộc lộ ra ngoài, tức là tình cảm ấy chủ động tìm đến với một thể loại, một cách viết, cách sử dụng ngôn từ sao cho phù hợp nhất với nó. Nếu như tình cảm của nhà thơ là phân sâu kín trong tâm hồn thì hình thức bộc lộ ra bên ngoài chính là sự thể hiện của tình cảm ấy. Khi tình cảm tự tìm cho nó một hình thức để bộc lộ ra ngoài là khi tình cảm ấy đã ở độ mãnh liệt nhất, ở đỉnh diểm của sự rung động. Và khi ấy chúng ta có thơ. Tác phẩm thơ, như vậy, chính là sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa tình cảm của người viết với một hình thức biểu hiện. Thực chất câu nói của Ta-go đề cập tới quy luật sáng tạo trong thơ ca: thơ ra đời khi nội dung tìm được một nghệ thuật biểu hiện phù hợp và truyền tải được hết nội dung ấy. Quy luật sáng tạo trong thơ ca nghệ thuật là quy luật của tình cảm. Sáng tác thơ nói riêng và văn chương nói chung chính là để thể hiện những tư tưởng, tình cảm, những ước mơ, khát vọng của người cầm bút. Thơ là tiếng nói của tình cảm khi tình cảm ấy ở độ sâu sắc, mãnh liệt nhất. Khi những thôi thủc của trái tim trở nên dồn dập, mạnh mẽ, nó sẽ tự tìm đến một hình thức biểu hiện phù hợp nhất, truyên tải hết những tình cảm ấy. Nhà văn Nguyên Hồng từng tâm sự: những gì tôi viết ra là những gì yêu thương nhất của tôi, những ước mơ nhức nhối nhất trong lòng tôi. Những yêu thương, những mơ ước ấy đều ở độ cao trào, và khi ấy văn chương nghệ thuật ra đời. Đặc biệt, đối với thơ thì tình cảm càng trở nên quan trọng: thơ hay, lời thơ chín đỏ trong cảm xúc. Cảm xúc của nhà thơ chính là yếu tố quan trọng nhất góp phần tạo nên sự đặc sắc và nét riêng độc đáo của mỗi tác phẩm thơ ca. Nhà thơ viết bằng chính những rung động chân thật của lòng mình, những rung động ấy ở mỗi nhà thơ mỗi khác dù có thể cùng viết về một đề tài, một hiện tượng. Gốc trong thơ là tình cảm (Bạch Cư Dị). Không có tình cảm của nhà thơ thổi nguồn sống những câu chữ hiện lên trên trang giấy sẽ chỉ là những câu chữ “thẳng đơ”, vô nghĩa và vô cảm. Thơ ca khác với những lĩnh vực khoa học khác. Nếu như trong khoa học, người ta cố loại bỏ những cái cá biệt để xác lập nên những quy luật phổ quát, thơ ca đòi hỏi rất cao ở người sáng tác một cái tôi cá nhân riêng biệt. Sáng tác thơ một việc do cá nhân thi sĩ làm, một thứ sản xuất độc đáo và cá thể (Xuân Diệu). Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của trái tim. Nhưng chỉ như vậy thôi thì chưa đủ. Bởi thơ chỉ ra đời khi tiếng nói hồn nhiên nhất của trái tim ấy tìm thấy cho nó một hình thức biểu hiện phù hợp và độc đáo. Một tác phẩm thơ ca nghệ thuật phả là tác phẩm kết hợp được nhuần nhuyễn hai yếu tố nội dung và nghệ thuật. Một nội dung mới mẻ nhiều khi tự tìm đến một hình thức biểu hiện riêng. Nguyễn Du viết Truyện Kiều bằng nỗi đau đớn lòng trước những điều trông thấy, bằng một trái tim yêu thương rất mực… nhưng Truyện Kiều sẽ ra sao nếu không được sáng tác bằng thể thơ lục bát, thể thơ truyền thống của dân tộc. Tình cảm mãnh liệt của Nguyễn Du đối với những nhân vật trong Truyện Kiều – hình bóng của những con người thực đã tìm đến một hình thức thể hiện độc đáo, phù hợp. Bởi thế mà Truyện Kiều trở thành đinh cao của thơ ca Việt Nam không chỉ ở thời kì trung đại, được quân chủng nhân dân mọi thời tiếp nhận, yêu thích, say mê. Cảm xúc của nhà thơ chủ động tìm đến những hình thức biểu hiện riêng và có thể nói chính sự chủ động này đã làm nên những sáng tạo thi ca độc đáo. Hồ Xuân Hương với tiếng nói riêng của một người phụ nữ có cá tính, muốn đòi quyền sống, quyền bình đẳng cho người phụ nữ đã cất lên những lời thơ cứng cỏi và có vẻ như thách thức: Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu? (Đề đền Sầm Nghi Đống) Quy luật sáng tạo trong thơ ca chính là quy luật của những cảm xúc lên đến đỉnh điểm. Thơ mới ở Việt Nam (1932 – 1945) khi ra đời dường như không còn phù hợp với những lối nói của thơ cổ. Cái áo xưa chật chội đã không thể bao chứa những cảm xúc mạnh mẽ của cái tôi cá nhân người cầm bút. Bởi thế thơ tự tìm đến những hình thức mới phù hợp nhất. Đó là lối thơ tự do, không gò bó trong những uốn khố, quy phạm, những hình ảnh thơ mới mẻ tươi nguyên một sức sống, một sự bỏng cháy: Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếch choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi; – Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi! (Xuân Diệu, Vội vàng) Những câu thơ Xuân Diệu cứ trải ra như chính những khát khao mãnh liệt của tâm hồn thi sĩ truớc cuộc đời. Xuân Diệu là nhà thơ của niềm khát khao giao cảm với đời – cuộc đời hiểu theo nghĩa trần thế nhất. Và niềm khát khao ấy đã theo con chữ mà đến với bạn đọc muôn đời. Hồn ông là hương, thơ ông là gió. Xuân Diệu muốn đưa hương bay khắp trần gian như phấn thông vàng trải mênh mông nơi biển lớn cuộc đời. Những khát khao như tan ra theo từng con chữ. Muốn ôm, muốn riết, muốn cắn những cảnh sắc, những hương nhuỵ cuộc đời hay chính là Xuân Diệu đang bất tử hoá chính những khát khao ấy bằng thơ ca. Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dào dạt và nguồn sống ấy đã tự tìm cho nó một lối thế hiện rất Tây, rất lạ lẫm với thơ ca trung đại. Những hình ảnh thơ tươi mới, lối nói mang đậm chất lãng mạn của dòng thơ tượng trưng Pháp… đã nói hộ những tình cảm bỏng cháy trong tâm hồn thi sĩ. Hãy đập vào trái tim anh, thiên tài là ở đấy (Muột-xê). Trái tim nhà thơ đến một nghệ thuật biểu hiện, và khi ấy thơ ra đời, chân thành, giàu xúc cảm và cũng thật độc đáo, riêng biệt. Hoàng Cầm viết Bên kia sông Đuống trong một đêm khi nghe tin địch tràn tàn phá quê hương mình. Dòng cảm xúc cứ tuôn trào khiến ngòi bút nhiểu không theo kịp, bởi thế thể thơ tự do là thích hợp nhất và biểu hiện một cách sắc nhất những tình cảm ấy. Dòng hồi tưởng cứ miên man chảy trôi như chính dòng sông đang hiện về trong tâm tưởng nhà thơ. Em ơi buồn làm chỉ Anh đưa em về sông Đuống Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ Thơ là tất cả, chỉ trừ không chịu là yên tĩnh. Tình cảm trong thơ cũng vậy, luôn vận động để tìm đến những hình thức riêng phù hợp. Những tình cảm mãnh liệt thường chọn cho nó một cách thức để biểu hiện sao cho độc đáo nhất, truyền tải được hết những cảm xúc ấy tới người đọc. Tình cảm nhiều khi tràn ra câu chữ, mỗi từ, mỗi chữ, mỗi câu đều được soi sáng bằng ngọn lửa của những tình cảm mãnh liệt. Xuân Quỳnh viết bài thơ Sóng mà tưởng như nhịp sóng đang quyện hoà với lời thơ mà xô vào nhịp đập của con tim. Cả bài thơ là một nhịp sóng lớn, con sóng của biển cả và con sóng của một trái tim phụ nữ đầy lo âu chân thành và da diết khát vọng hạnh phúc đời thường. Sự chủ động của tình cảm trong thơ khi tìm lấy một hình thức biểu hiện riêng đã làm nên những áng thơ hay còn mãi với thời gian. Câu nói của Ta-go chính là một định hướng cho người cầm bút. Không chỉ sáng tác thơ mà sáng tác văn học nghệ thuật nói chung đều rất cần ở người cầm bút một tình cảm mãnh liệt, bắt rễ sâu xa trọng hiện thực cuộc sống. Sự kết hợp giữa nội dung và nghệ thuật trong thơ sẽ tạo nên những tác phẩm thơ độc đáo. Nhà văn, nhà thơ chỉ có được tình cảm mãnh tiệt khi gắn mình với mảnh đất hiện thực, khi tìm những cảm hứng sáng tác ở chính cuộc đời. Nhà văn phải mở hồn ra đón nhận những vang động của đời (Nam Cao). Những con sóng của cuộc đời bắt nhịp với con sóng của trái tim nghệ sĩ sẽ tìm đến những hình thức nghệ thuật độc đáo. Và thơ ra đời, “kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế” (Hoài Thanh), Với người sáng tác văn học nghệ thuật, nắm vững quy luật sáng tạo này sẽ là cơ sở vững chắc để tạo nên những tác phẩm hay, hấp dẫn người đọc. Và với người tiếp nhận, khi hoà những cảm xúc của mình với ngòi bút của nghệ sĩ sẽ có sự thấu hiểu, tri âm với người cầm bút. Tình cảm chính là yếu tố quyết định thành công của nhà văn. Tình cảm ấy chính là “tấm lòng sứ điệp” nhịp mãi lên theo câu chữ để mãi mãi văn học sống trong lòng độc giả, là hành trang để ta bước vào đời…
Câu 3. Quê hương ai cũng có một dòng sông, một dòng sông của tuổi thơ, một dòng sông với những câu hò, điệu hát, với những chan chứa yêu thương và kỉ niệm. Để rồi khi đi xa, nỗi nhớ da diết về một dòng sông quê hương lại cồn cào, bỏng cháy. Hai bài thơ Nhớ con sông quê hương của Tế Hanh và Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm chính là sự thể hiện một cách sâu sắc nỗi nhớ những con sông quê hương khi nhà thơ xa quê. Hai đoạn thơ: Quê hương tôi có con sông xanh biếc, Nước guơng trong soi tóc những hàng tre. Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè, Toả nắng xuống lòng sông lấp loáng. (Nhớ con sông quê hương)
Anh đưa em về sông Đuống Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ (Bên kia sông Đuống) chính là những dòng cảm xúc của hai tác giả gửi về những con sông của quê hương mình khi xa quê. Tế Hanh và Hoàng Cầm khi viết hai bài thơ này đều đang trong hoàn cảnh xa quê. Đây là hai bài thơ đặc sắc thể hiện nỗi nhớ da diết của Hoàng Cầm, Tế Hanh đối với dòng sông quê mình. Và hình ảnh của dòng sông hiện về trong tâm trí thi nhân mang những nét đẹp của những con sông trên đất Việt thân thương. Những con sông tưới mát đôi bờ cây trái, những con sông tưới mát cả những tâm hồn dân tộc. Tế Hanh viết Nhớ con sông quê hương khi nhà thơ phải rời miền Nam để ra Bắc tập kết và hình ảnh con sông trong bài thơ là hình ảnh của dòng sông Trà Bồng vẫn thường đi về trong thơ ông. Nhớ về quê hương là nhớ về con sông xanh biếc. Hoàng Cầm xa quê Kinh Bắc đi kháng chiến, trong một đêm năm 1948, nghe tin giặc tràn vào tàn phá quê hương, ông sáng tác Bên kia sông Đuống. Bài thơ là nỗi niềm tâm sự vừa tự hào, yêu thương, vừa đau đớn xót xa của nhà thơ gửi về Kinh Bắc, gửi về dòng sông Đuống thân thương. Hai đoạn thơ này đều là những đoạn thơ tiêu biểu của mỗi bài và cũng là những đoạn thơ tiêu biểu của những bài thơ viết về quê hương trong thời kì chiến tranh giải phóng dân tộc gian khổ mà vinh quang. Nhớ con sông quê hương, Tế Hanh dựng lên hình ảnh của một dòng sông tươi mát, trong xanh: Quê hương tôi có con sông xanh biếc, Nước guơng trong soi tóc những hàng tre. Ba từ quê hương tôi vang lên đầy tự hào, và nhà thơ Tế Hanh như đang vē ra trước mắt ta hình ảnh của dòng sông. Đó là dòng sông xanh biếc, sắc xanh của nước sông hay cả sắc xanh của nỗi nhớ thương gửi vào câu chữ? Xanh biếc vừa cho thấy cái xanh của dòng nước, vừa như gợi lên hình ảnh của một dòng xanh bất tận. Sắc xanh ấy như in đậm trong tâm hồn Tế Hanh để khi nhớ về quê hương là sắc xanh ấy lại hiện lên, thân thương biết mấy! Dòng sông được miêu tả với: Nước gương trong soi tóc những hàng tre. Dòng sông được nhà thơ so sánh như tấm gương trong. Nước sông trong vắt như soi tóc những hàng tre. Đó là những hàng tre xanh mướt – những hàng tre mang dáng hình của người thiếu nữ yêu kiểu đang xoã tóc soi gương. Phép nhân hoá độc đáo khiến hình ảnh thơ sống động có hồn. Thiên nhiên mang vẻ đẹp và dáng dấp của con người. Và chính tâm hồn nhà thơ dường như cũng đang soi mình trong gương nước. Cái đẹp của dòng sông dường như được thi vị hoá trở nên đẹp hơm qua nỗi nhớ của nhà thơ. Con sông Trà Bồng đấy ư hay chính là con sông của tình yêu và nỗi nhớ đang chảy trôi trong tâm hồn thi sĩ? Để rồi thật bất ngờ khi Tế Hanh so sánh: Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè, Toả nắng xuống lòng sông lấp loáng. Tâm hồn tôi cũng nồng nàn, bỏng cháy như buổi trưa hè với cái nắng thật rực rỡ và mãnh liệt. Đó là tâm hồn của con người da diết yêu quê, yêu sông, yêu chính những kỉ niệm với dòng sông. Tâm hồn ấy toả nắng xuống lòng sông lấp loáng toả rạng cùng cái đẹp của dòng sông. Đó là dòng sông của nỗi nhớ đang hiện về da diết, với cái lấp loáng thật nên thơ, nên hoạ. Đoạn thơ cho thấy niềm tự hào, tình yêu của Tế Hanh với con sông quê hương – con sông đã tắm mát tuổi thơ và đời thơ Tế Hanh. Cũng là dòng sông nhưng con sông trong thơ Hoàng Cầm lại mang những nét dáng riêng, mang đặc trưng của con sông miền quê Kinh Bắc văn hiến và trữ tình: Anh đưa em về sông Đuống Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh Sông Đuống của ngày xưa, của một quá khứ tươi đẹp và bình yên. Con sông với cát trắng phẳng lì. Những bãi cát cứ trải dài vô tận và con sông như đang trôi đi, trôi trong tâm tưởng của nhà thơ. Con sông ấy gợi một vẻ bình yên, thơ mộng, một vẻ đẹp nên thơ mà tĩnh lặng. Những câu thơ tự do như trải dài ra theo dòng chảy của con sông. Một dòng lấp lánh hiện về trong tâm tưởng Hoàng Cầm. Đó là một dòng ánh sáng hay một dòng mơ nhớ huyền diệu đang lấp lánh trong kí ức yêu thương của Hoàng Cầm. Không phải là lòng sông lấp loáng như trong thơ Tế Hanh mà là một dòng lấp lánh. Dòng sông như đang chuyển động, nó đẹp đến mê hồn trong nỗi nhớ của nhà thơ. Nhưng dòng sông còn được tái hiện trong dáng nằm của hiện tại: Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì. Con sông như đang lo âu, trăn trở, dáng nằm ấy chưa từng có trong văn thơ nói về dòng sông. Dáng nằm ấy như tạc vào thơ ca một sông Đuống trong hiện tại đẹp mà đau thương, đầy lo âu. Đó chính là do tình yêu, niềm tự hào và sự đau đớn xót xa mà Hoàng Cầm đã gửi vào hình ảnh của dòng sông. Hai đoạn thơ làm nổi bật vẻ đẹp riêng của hai con sông trong tâm tưởng những nhà thơ đi xa quê hương. Những dòng sông cứ cồn cào trong nỗi nhớ. Nhớ về con sông chính là nhớ về quê hương. Nỗi nhớ ấy chính là động lực, là niềm thôi thúc để nhà thơ – chiến sĩ chiến đấu bảo vệ quê hương, bảo vệ sự bình yên cho quê hương và cho bao dòng sông trên đất nước. Hai đoạn thơ này đã cho thấy hình ảnh đẹp về những dòng sông quê hương. Những dòng sống thơ của Hoàng Cầm, Tế Hanh đã bắt rễ sâu vào lòng yêu, lòng nhớ của bao nguời Việt Nam yêu quê hương đất nước. (Bài đoạt giải Nhì – 17/20 điểm)
NHẬN XÉT Những yêu cầu cơ bản đặt ra trong đề bài đã được đáp ứng tương đối tốt trong bài làm này. Câu 1 của bài viết gợi cho ta cảm giác: người viết có vẻ “chín” hơn, “già” hơn so với lứa tuổi học sinh THPT. Những suy nghĩ sâu sắc, chín chắn về tình mẫu tử trong cuộc sống đã được bộc lộ nhiều chiều khác nhau, từ đó luận bàn trúng yêu cầu đặt ra: Cách mẹ thế hiện tình yêu với con và khả năng cảm nhận của con về lòng mẹ. Phần bàn luận, mở rộng vấn đề viết tốt. Tuy nhiên, cách lập ý, chia đoạn và diễn đạt một số chỗ cần phải căn chỉnh lại. Ở câu 2, người viết hiểu đúng ý kiến của nhà thơ Ra-bin-đra-nát Ta-go, biết dụng kiến thức lí luận văn học về quy luật sáng tạo văn học và đặc trưng của thơ trữ tình để cắt nghĩa lời nhận định và bàn luận vấn đề một cách khoa học, sâu sắc. Điều đáng quý hơn là biết cách xâu chuỗi phần bình luận và phần chứng minh vấn để một cách chặt chẽ, linh hoạt, sáng tạo với vốn kiến thức lí luận văn học chắc chắn, vốn kiến thức về tác phẩm văn chương khá phong phú và khả năng thẩm bình tác phẩm văn chương khá tốt. Phần đánh giá, mở rộng vấn đề khá đạt; trong đó, bài học sáng tạo với người nghệ sĩ và bài học tiếp nhân cho người đọc được truyền tải một cách nhẹ nhàng, ngắn gọn mà ý nghĩa. Ở câu 3, người viết cảm nhận được điểm gặp gỡ ở hai đoạn thơ là hình ảnh dòng sông trong bài thơ Nhớ con sông quê hương của Tế Hanh và dòng sông trong bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm đều toát lên nỗi nhớ sông quê, nỗi nhớ quê hương thiết tha, đằm thắm. Người viết đã chỉ ra một vài nét khác biệt trong cảm xúc và sáng tạo nghệ thuật của Tế Hanh và Hoàng Cầm khi miêu tả hình ảnh dòng sông qua hai đoạn thơ. Nếu dòng sông của Tế Hanh nghiêng về vẻ đẹp trong trẻo, chứa đầy kỷ niệm tuổi thơ với những gắn bó máu thịt giữa dòng sông và tâm hồn người, thì dòng sông của Hoàng Cầm lại nghiêng về vẻ đẹp huyền ảo, chất chứa những hoài niệm của một người kháng chiến về một dĩ vãng yên bình. Điểm yếu của bài viết là ở phần mở bài diễn đạt chưa được gọn gàng và khoa học.
Phần I. Đọc hiểu (3 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: Em là ai ? Cô gái hay nàng tiên Thịt da em hay là sắt là đồng ? Cho tôi hôn bàn chán em lạnh ngắt Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung Ôi trái tim em trái tim vĩ đại Còn một giọt máu tươi còn đập mãi Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời Cho quê hương em. Cho Tổ quốc, loài người! (Người con gái Việt Nam, Tố Hữu, Gió lộng, NXB Văn học, 1961) Câu 1: Đoạn trích trên được sáng tác vào giai đoạn văn học nào? Câu 2: Hình tượng nhân vật trung tâm của đoạn thơ là ai? Hình tượng nhân vật ấy được tác giả thế hiện với thái độ gì? Câu 3: Anh (chị) hãy chỉ ra và phân tích giá trị của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng ở đoạn thơ đầu. Câu 4: Trong khoảng từ 5 – 7 dòng, trình bày suy nghĩ của anh chị về vấn đề lẽ sống của tuối trẻ được đặt ra trong khổ thơ cuối cùng của đoạn trích . Phần II. Làm văn (7 điểm) Câu 1 (2 điểm): Bằng đoạn văn khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của anh (chị) về bài học mà người cha muốn nói với con trong bài thơ sau: Chẳng ai muốn làm hành khất Tội trời đày ở nhân gian Con không được cười giễu họ Dù họ hôi hám úa tàn Nhà mình sát đường họ đến Có cho thì có là bao Con phải răn dạy nó đi Nếu không thì con đem bán Mình tạm gọi là no ấm Ai biết cơ trời vần xoay Lòng tốt gửi vào thiên hạ Biết đâu nuôi bố sau này… (Dặn con, Trần Nhuận Minh) Câu 2 (5 điểm): Có ý kiến cho rằng: Sông Hương là bản tình ca ca ngợi về thiên nhiên và văn hóa xứ Huế. Qua phân tích tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường), hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. |
THẦY KHƯƠNG TRÊN FACEBOOK
|