Bài văn đạt giải quốc gia năm 2012 ( bài số 1)
Không có phản hồi
Bài văn đạt giải quốc gia năm 2012 ( bài số 1)
ĐỀ BÀI
Câu 1. (8,0 điểm) Là thanh niên thế hệ hôm nay, anh (chi) hãy suy nghĩ và phác hoạ một châm ngôn sống cho chính mình.
Câu 2. (12,0 điểm) Các nhà văn, nhà thơ nhân đạo lớn thường gửi vào sáng tác một cách nhìn sâu sắc về con người, cách nhìn này hướng đến đời sống nội tâm và cảm xúc. Bằng việc phân tích một vài tác phẩm trung đại và hiện đại đã học, anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên.
YÊU CẦU LÀM BÀI
Câu 1.
Dạng đề này cho phép người viết có thể lựa chọn các cách thể hiện và thao tác tạo lập văn bản khác nhau, nhưng phải phù hợp và thuyết phục. Đồng thời, người viết cũng được tự do huy động các nguồn khác nhau như: nguồn tri thức sách vở, tri hức đời sống, những quan sát, trải nghiệm và suy nghĩ của riêng mình về chỗ đứng và cách sống của thanh niên hiện nay. Điều cần lưu ý là phải xác định rõ đây là đề nghị luận xã hội, yêu cầu trình bày những hiểu biết về thực tế đời sống xã hội và những quan niệm, trải nghiệm của bản thân chứ không phải đề nghị luận văn học, do đó, những kiến thức về văn chương nghệ thuật có thể được huy động nhưng chí là sự tham bác cần thiết với ý nghĩa phụ trợ, người viết không được trình bày bài viết dưới dạng bài nghị luận văn học, thuần tuý bàn bạc về một vấn đề của văn chương nghệ thuật. Người viết cần xác định được một tâm thế đúng đắn của người trong cuộc, tâm thế của một thành viên thuộc thế hệ thanh niên thời hiện đại trên hành trình đi tìm châm ngôn sống, xác định lẽ sống cho chính mình. Việc viết bài, vì thế, không chỉ đơn thuần là giải một đề thi mà truớc hết là một dịp đối diện với cuộc sống xã hội đương đại và bản thân. Do đó, cần phải xuất phát từ điểm nhìn cá nhân và phải luôn ý thức rõ ở đây không phải chỉ nghị luận cho người khác, về người khác, mà trước hết là chuyện của mình, nói từ mình và cho mình. Nghĩa là cần phải trình bày những suy nghĩ mang tính cá thể, in đậm dấu ấn của bản thân về mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, từ đó xác định được chỗ đứng và cách sống đúng đắn cho mỗi người. Ở đây, cùng với nhận thức đời sống còn là quá trình tự nhận thức để vươn tới hoàn thiện nhân cách cá nhân.
– Giải thích: Giải thích ngắn gọn khái niệm “châm ngôn” và “châm ngôn sống”. + Châm ngôn là câu nói ngắn gọn, hàm súc, đúc kết một vấn đề mang tính chân lí, có vai trò hướng dẫn về đạo đức, về cách sống, về hành vi ứng xử trong cuộc sống… + Châm ngôn sống là một tư tưởng, quan niệm sống được đúc kết, có tác động sâu sắc đến việc lựa chọn các giá trị sống của mỗi người. – Suy nghĩ cá nhân: + Suy nghĩ về đặc điểm của thế hệ thanh niên thời hiện tại với nét nổi bật là xu thế, bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế. + Suy nghĩ về sự cần thiết và ý nghĩa của việc xác định châm ngôn sống của một thanh niên trong thời đại hiện nay. + Phác hoạ được châm ngôn sống cho bản thân. + Định hướng về sự lựa chọn cách sống, cách suy nghĩ và hành động của bản thân từ việc xác định châm ngôn sống.
Câu 2.
Cần xác định đây là kiểu bài nghị luận văn học để làm bài theo đúng kiểu văn bản và văn phong phù hợp. Cần phát huy đồng thời hai năng lực: nắm bắt và làm sáng tỏ một vấn đề lý luận văn học, cụ thể là quan niệm nghệ thuật về con người; hiểu và cảm thụ, phân tích ý nghĩa của việc khám phá đời sống nội tâm và cảm xúc như một cách nhìn toàn diện và sâu sắc về con người. Lưu ý: sự quan tâm đến con người không chỉ dừng lại ở việc nhìn nhận, đánh giá diện mạo, ngôn ngữ, hành động mà đặc biệt còn phải thấu hiểu đời sống nội tâm sâu kín, cảm xúc phong phú, tinh vi của con người; đời sống nội tâm và cảm xúc của con người trong tác phẩm trước hết là vấn đề thuộc về nội dung nhưng không chỉ đơn thuần là nội dung mà còn là biểu hiện của trình độ sáng tạo nghệ thuật.
– Làm rõ nội dung, ý nghĩa của nhận định + Cần xác định được thế nào là nhà nhân đạo lớn trong sáng tác văn học. + Cần hiểu được nhận định nêu trong để bài nhấn mạnh đến một cách nhìn về con người, bao hàm việc đặc biệt chú trọng đến đời sống nội tâm và cảm xúc. Đây chính là một biểu hiện độc đáo và sâu sắc của tư tưởng nhân đạo trong văn học và cũng là một phương diện của hình thức nghệ thuật sáng tạo, đặc sắc. + Cần thấy đây là một nhận định đúng đắn vì đã chú ý đến đời sống nội tâm và cảm xúc như một yếu tố quan trọng làm nên chiều sâu nhân bản và cả hình thức đặc sắc của tác phẩm văn học; đồng thời là một định hướng cần thiết để tiếp nhận sâu sắc hơn giá trị của văn chương nghệ thuật. + Nhận định này nhấn mạnh đến ý nghĩa của việc khám phá, phát hiện đúng đắn và sâu sắc về con người trong sáng tạo nghệ thuật, thể hiện thái độ trân trọng quyền được biểu hiện thế giới bên trong của con người. – Phân tích một số tác phẩm văn, thơ tiêu biểu: + Cần lựa chọn được một số tác phẩm văn, thơ tiêu biểu của văn học trung đại và hiện đại, không hạn định về thể loại, tác phẩm trong nước hay nước ngoài. + Đối với văn xuôi, cần phân tích và nêu được ý nghĩa của việc thể hiện đời sống nội tâm nhân vật như một phương tiện nhìn nhận, thấu hiểu sâu hơn tính cách, số phận và phẩm giá của con người. + Đối với thơ ca, cần phân tích và nêu được ý nghĩa của việc thể hiện những rung động, cảm xúc riêng tư, tinh tế… như một sự phát hiện, trân trọng nhu cầu bộc lộ phong phú và mãnh liệt chiều sâu tâm hồn của con người. + Cần nêu bật những đặc sắc nghệ thuật trong việc thể hiện đời sống nội tâm, cảm xúc ở mỗi hình tượng nhân vật (văn xuôi) và nhân vật trữ tình (thơ ca) mà mình lựa chọn phân tích.
BÀI LÀM SỐ 1
Câu 1. Mỗi con người chúng ta đều được ôm trùm và bao bọc bởi thời gian. Đất nước tồn tại trong quá khứ, hiện tại, tương lai. Bởi thế, ai ai cũng sống với hôm qua, hôm nay, ngày mai. Thế hệ thanh niên chính là ngày mai của dân tộc, là tương lai của Tổ quốc. Thanh niên là sức mạnh của tuổi trẻ, chứa chan hi vong, tiép bước các bậc tiền nhân, hằng mong phát triển và bồi đắp cho mảnh đất giàu đẹp hình chữ S này thêm phồn vinh, hạnh phúc. Muốn vậy, thế hệ thanh niên chúng ta không thể không có cách sống, châm ngôn sống đúng đắn. Vậy châm ngôn đó là gì? Theo tôi, với trọng trách đè nặng trên vai, dứng truớc chặng đường lịch sử hôm nay, mỗi chúng ta hãy sống, hãy tâm niệm được “sống trong bản hoà ca của xưa và nay”. Nói đến hiện tại, nếu không nhắc đến quá khứ, sao tôi cứ cảm thấy có điều gì thật sơ sót. Biết đâu châm ngôn sống trên đây cũng đã từng là dieu tâm niệm của bao thế hệ thanh niên ngày trước? Biết đâu, đấy là điều chẳng có gì riêng biệt với mỗi người trong thời khắc hiện đại đang chảy trôi mà là quan niệm sống đúng với mọi thời? Nếu ý kiến trên đây của tôi có đúng với mọi thời thì cũng đáng là một niềm hạnh phúc nhưng có ai chắc rằng ý nghĩa của nó không lặp lại người xưa và bản thân nó chỉ là một cú pháp chủ – vị tầm thường, sơ sài, nông cạn nếu đem so sánh với bao danh ngôn kì thú của bao vĩ nhân đỉnh cao trí tuệ loài người? Vậy, ta hãy quay ngược thời gian xem người xưa đã sống, đã yêu và đã ghét ra sao. Người xưa, dù là ai đi chăng nữa, đều đã từng có một thời tuổi trẻ với trái tim cường tráng rộn ràng sinh lực, với bao hoài bão ước mơ. Nhưng quạn niệm thời trung đại chỉ cho phép họ ước mong “trí quân”, “trạch dân”, mơ về một thời “Nghiêu Thuấn”… Những mơ mộng trở thành trượng phu quân tử không chỉ là của riêng lứa thanh niên mà là khát vọng cao cả của chung mọi lứa tuổi không kể trẻ già, miễn họ là nho giả, tắm mát đạo thánh hiền, chầu chực chốn sân Trình cửa Khổng. Còn viễn cảnh “võng anh đi trước, võng nàng theo sau” bị coi là vị ki, vụ lợi, nhỏ nhặt, chỉ nằm trong đám “đàn bà, trẻ con” chứ không ai dám nói ra. Thanh niên thuở trước sống vì đạo, vì công đồng chung, vì xã hội, nghĩa là vì những nghĩa vụ cao cả, lớn lao nên rất chóng thành các “ông già” về suy nghĩ. Mà phải già thực vì xã hội xưa ít coi trọng người trẻ mà coi trọng người già, xem thường người trẻ vị tuổi trẻ bồng bột, thiếu chín chắn, hay tự mãn; trân trọng người già vì tuổi già gắn liền với kinh nghiệm, uy tín, đạo đức. Do đó, dân ta rất nhớ ngày mất mà ít nhớ ngày sinh, mừng lên lão chứ không mừng thêm tuổi, trong làng trong xã có Hội đồng kì lão quyết đáp mọi sự còn bọn trai trẻ chỉ là chân chạy ngoài, sai vật. Trong Vũ trung tuỷ bút, Phạm Đình Hổ từng kể lại chuyện trong kì thi Hương, hai bài cùng đáng đỗ đầu nhưng một quyển của “lão sư túc nho” nên được đề lên trước, quyển kia hoá ra kém hạng. Phi lí như vậy nhưng ông Phạm cũng ngợi ca tập tục trước đời Cảnh Hưng (1740 – 1787) rằng có việc lớn thì người già chỉ đạo, thanh niên chỉ ngồi khoanh tay tuân mệnh, không dám tỏ bày ý kiến. Bùi Giáng bình Truyện Kiều, thấy suốt 3254 câu không xuất hiện một bóng trẻ mà ai cũng già cả, thạo đời. Thanh niên thời xưa là vậy, sống tuân phục theo khuôn mẫu nền nếp và đa phần an phận thủ thường. Nói về thời xưa, tôi muốn đối sánh với hôm nay: thời thế đã khác, lẽ tất nhiên quan niệm sống cũng đổi thay. Chúng ta đang sống trong thời đại đất nước mở cửa. Thanh niên như ở trong ngôi nhà lộng gió từ khắp bốn phương, gió thổi từ châu Âu, châu Mỹ… hoà vào khí thế hừng hực của dân tộc đi lên trên con đường phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đời sống thay đổi căn bản cả về vật chất và tinh thần, lối sống hiện đại nhuần thấm, đi vào tận chỗ sâu nhất của hồn ta. Cách nghi, cách cảm và nói chung là quan niệm của thanh niên Việt Nam hiện nay cố nhiên cũng phải thay đổi. Xã hội đòi hỏi ở thanh niên cũng nhiều điểm khác xưa. Việc tìm cho mình một cách sống mới thật sự cần thiết, nhất là ở lứa tuổi chúng tôi, sắp tạm biệt tuổi học trò hồn nhiên cùng phấn trắng, bảng đen, phượng hồng để bước vào cuộc đời với bao bề bộn, lo toan cùng bao cơ hội và thách thức. Đó là lí do khiến tôi đề xuất châm ngôn sống cho riêng mình: “Hãy sống trong bản hoà ca của xưa và nay”. Thanh niên thời nay cần phải sống trước hết cho mình, trước tiên vì mình; mình phải là người có ích cho mình rồi sau đó mới là hữu ích cho gia đình, xã hội. Lối sống hiện đại gắn liền với tinh thần cá nhân, quyền cá nhân và đó cũng là đích đến của bao cuộc cách mạng. Thanh niên có quyền mưu cầu lợi ích vật chất và tinh thần cho mình, thanh niên có quyền khẳng định mình, không phải lo ngại tỏ bày ý kiến, suy nghĩ. Nhờ đó, bản lĩnh sống của thanh niên dược phô bày trong cuộc cạnh tranh khốc liệt của toàn nhân loại, để đưa chính mình và toàn nhân loại phát triển. Phải sống đã đầy, phải sống hết mình, sống thật với mình, quyết đoán, bạo dạn, mạnh mẽ, thanh niên mới có thể nhận thức tài năng, ý chí, mở rộng biên giới tâm hồn mình mang sức mạnh của tuổi trẻ và sức sống trào sôi đánh bại sự khắc khổ, tụt hậu và chậm tiến. Chỉ với cách sống đó, thanh niên mới xứng đáng với trọng trách của thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có lần dạy chúng ta về điều này: Không có việc gì khó Chỉ sợ lòng không bền Đào núi và lấp biển Quyết chí ắt làm nên. Nhưng ngày hôm nay không thể không tạo dựng từ ngày hôm qua. Có những điều hôm qua là chân lí nhưng hôm nay đã sai lầm, đáng bị đào thải nhưng lại có những điều còn đúng cho cả ngày nay và cho mọi thời. Đó chính là phong tục tập quán đẹp đẽ của đạo đức cha ông bao đời gìn giữ, đó chính là phong thái sống hào hoa, thanh nhã của quá khứ đang chảy trôi trong lòng hiện tại. Chúng ta phải tiếp tục gìn giữ và bổi đắp cho đẹp đẽ thêm lên. Cho dù trong tâm hồn ta đang diễn ra cuộc giao tranh quyết liệt giữa cái cũ và cái mới thì mãi mãi, ta vẫn phải sống với đạo đức thuần phong mỹ tục của cha ông, mãi mãi ta vẫn thuộc về xứ sở này. Sống với ngày xưa là sống với nhân cách tien nhân, dù trải bao phong ba vẫn cứ nghĩa tình, son sắt, thuỷ chung, vẫn cứ hướng đến cái tốt, cái đẹp ở đời. Sống với xưa và nay là cách sống dung hoà giá trị tinh hoa của muôn đời, sống với những giá trị người bền vững. Tôi tin đó là cách sống đúng đắn vừa giúp thanh niên kịp tiến bước trên đường phát triển vừa lưu giữ trong mình nét đẹp của đạo 1í muôn đời để thực sự là “kẻ sĩ hiện đại” như lời học giả Nguyễn Khắc Viện. Tuy nhiên, sống được như vậy hay không còn phụ thuộc vào bản lĩnh của mỗi người. Thực tế cho thấy, có nhiều thanh niên đã chọn cho mình cách sống sai lầm, hoặc chạy theo những thú vui vật chất của thời hiện đại mà coi thường giá trị văn hoá của cha ông, cho là bảo thủ, hoặc sống quá nặng lòng với quá khứ mà trở nên rụt rè, nhút nhát, không dám nắm bắt cơ hội của riêng mình. Theo tôi, sống theo quan niệm đó chẳng chóng thì chầy sẽ sa vào tầm thường, nhỏ nhặt, không thể giúp thanh niên xứng với vai trò cần có của mình đối với việc phát triển của đất nước trong cả hiện tại và tương lai. Câu châm ngôn mà tôi đề xuất chỉ là một cách sống trong muôn vàn cách sống của thanh niên hiện thời. Châm ngôn thì vô vàn, nhưng đích đến của cuộc sống chỉ có một: cái thiện, cái đẹp ở đời. Mong sao ai cũng phấn đấu sống tốt đẹp hơn, lành mạnh hơn để mãi mãi xứng với danh hiệu Con Người.
Câu 2. Trái tim con người có sức mạnh phi thường và ki diệu. Ngạn ngữ Pháp có câu Mọi điều xuất phát từ trái tim. Điều này quả là minh xác đối với mọi phương diện đời sống và càng chuẩn xác hơn trong sáng tác văn chương nghệ thuật. Trước khi rỏ từng giọt tâm hồn ra ngòi bút để viết nên những câu chữ đẹp đẽ tinh khôi, mỗi nhà văn đều để dòng tư tưởng thấm xuyên qua con tim thổn thức để từ đó, thể hiện cái nhìn sâu sắc về con người mà gửi vào trong sáng tác. Cái nhìn nghệ sĩ luôn đau đáu khôn nguôi hướng đến đời sống nội tâm và cảm xúc, để dựng lên tượng đài cao đẹp và hùng vĩ của con người trong văn chương muôn thuở, trong tình nhân đạo dạt dào. Chắc hẳn ai cũng hiểu thấu câu nói quen thuộc: Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực đời sống. Đúng như vậy, không chỉ văn học mà tất cả mọi phát minh được con người sáng tạo ra đều bắt đầu từ thực tại đời sống của con người và sau đó quay lại phục vụ con người. Nhưng văn học khác với các phát kiến khác ở chỗ bổi đắp cho con người chủ yếu ở phương diện tinh thần. Nhà văn viết một tác phẩm để gửi gắm vào đó một cách nhìn sâu sắc về con người – đối tượng của văn học – nghĩa là một phát hiện khám phá mới mẻ, độc đáo, đầy ý nghĩa của riêng nhà văn về thế giới nhân sinh. Cách nhìn ấy, phát hiện ấy trước hết là cách cảm về con nguoi trong nỗi khổ, niềm vui và cái đẹp. Bày tỏ tình thương, lòng trắc ẩn trước đớn đau của cuộc đời và ca ngợi cái đẹp trong cuộc sống, đó là thiên chức của nhà văn. Thật không thể tin được có người tự nhận lấy danh hiệu Nhà văn cao quý trong khi trái tim chai sạn trước tiếng rên rỉ, nức nở của một số phân và lạnh lùng, vô cảm nhìn thấy vẻ tinh khôi của bông hồng buổi sớm đẫm sương đêm. Có thể nói, nhà văn phải gửi gắm được vào trong tác phẩm của mình một cái tâm tận thiện tận mĩ. Mỗi phút giây rung động trong tâm hồn là một lần ta sống thật với lòng mình, sống với tất cả bản chất người của mình. Con người hiện lên hoàn toàn nhất trong nội tâm và cảm xúc. Cố gắng nắm bắt tài tình được đời sống bên trong của mỗi người, nhà văn mới có thể nói là đắc nhân tâm, hiểu sâu sắc và có cái nhìn đúng đắn với nhân loại đông đúc này. Đó chính là phẩm chất cần thiết của một nhà văn chân chính và cũng là “nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ” (Sê-khốp). Một nhà văn đích thực phải đồng thời là một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn và phải luôn đặt cái tâm của mình lên trang giấy. Thiếu lòng yêu thương, tác phẩm văn học chỉ còn là một cái hồ chết, tù hãm và đầy bùn lầy nước đọng. Tại sao chúng ta lại có thể khẳng định như vậy? Vì, như đã nói, đối tượng chính của văn học chính là con người. Truyện ngụ ngôn mượn hình ảnh con vật chẳng qua cũng là để chỉ con người. Văn học tái hiện chân thực hình ảnh con người, văn học đục bỏ khỏi con người những gì không thuộc về nó. Đặc biệt, không chỉ biểu hiện ngoại hình nhân vật, văn học còn thâm nhập để khám phá được bí ẩn giấu kín đàng sau cánh cửa thế giới tâm hồn, tức đời sống nội tâm bên trong. Niềm hân hoan, vui sướng, nỗi phẫn uất, đau thương, sự căm hờn, nhỏ nhen len lỏi trong mọi ngõ ngách sâu thảm và cả bao nghịch lí chua chát, mâu thuẫn đắng cay cuồn cuộn chảy trong dòng cảm xúc, tất cả đều không thoát khỏi đôi mắt tinh tường của người nghệ sĩ. Nhà văn giống như nhà giải phẫu tâm hồn đầy tài năng, mỗi trang văn, trang thơ đểu là trang lòng trải trên mặt giấy. Do vậy, sáng tác về con ngưoi, nhà văn không thể không quan tâm đến đời sống nội tâm và cảm xúc. Nắm bắt được điều ấy là yêu cầu cao nhất mà cũng là bản lĩnh, tài năng và sự tinh tế của nhà văn. Hiểu về con người với toàn bộ dáng vóc nội tâm cũng là cách nhà văn bày tỏ suy nghĩ sâu sắc về thế giới và nhân sinh. Ai đó đã nói, có một thước đo để đánh giá một nhà văn lớn, ấy là anh ta đã đem đến thế giới này cách nhìn mới mẻ và sâu sắc như thế nào về cuộc đời con người. Mỗi sáng tác là mỗi con mắt soi chiếu thế giới này, cảm nhận vẻ đẹp khuất lấp đâu đó và tha thiết giãi bày tình thương đối với con người. Một lần sáng tác là một lần nghệ sĩ lặn lội với đời bằng cả tấm lòng tha thiết, hết sức trẻ trung trong cách cảm nhận và hết sức già dặn trong suy tư, triết lí về cuộc sống này. Mỗi sáng tác là mỗi cơ hội để nhà văn giải tỏ một điều gì đó mà kì lạ thay, cả cuộc đời nhà văn chỉ muốn nói điều ấy mà thôi. Đấy chính là cách nhìn, cách cảm riêng, độc đáo và sâu sắc của họ. Nhưng dù thế nào, thì tất cả đều giống nhau ở một điểm, ấy chính là phải thể hiện trong tác phẩm tinh thần nhân đạo. Hướng về con người, văn học không thể không nói đến cái xấu, cái chưa tốt nhưng trước hết và chủ yếu phải thể hiện cái dẹp, cái thiện của con người qua đời sống nội tâm. Đó chính là lòng nhân đạo. Hướng về con người, văn học thốt lên tiếng nói cảm thông với nỗi khổ đau, những mảnh đời lầm lạc hay mạnh mẽ hơn là tiếng nói tố cáo, phản kháng mạnh mẽ bao thế lực chà đạp lên cái tốt, cái đẹp và chà đạp lên số phận con người. Hướng về con người, dù thế nào đi chăng nữa, văn học vẫn luôn bày tỏ niềm tin son sắt, da diết vào chính nghĩa tất thắng, bày tỏ niềm tin vào bản chất tốt đẹp của con người thông qua đời sống nội tâm. Ngợi ca, cảm thông, tố cáo, tin tưởng, đó là những gì nhà văn muốn gửi gắm qua cách nhìn riêng của mình. Đó cũng là lí do vì sao mỗi tác phẩm đều là mỗi bậc thang đưa con người tiến đến gần hơn với chân – thiện – mỹ. Nguyễn Du, người nghệ sĩ thiên tài với trái tim lớn bao la của văn học Việt Nam là một nghệ sĩ như thế. Sáng tác của ông, dù là chữ Hán hay chữ Nôm, đều được viết bằng cả tấm lòng khổ đau và yêu thương, của tinh thần nhân đạo dạt dào, bày tỏ cái nhìn sâu sắc của Tố Như về những kiếp tài hoa. Thi phẩm Độc Tiểu Thanh kí của ông là minh chứng rõ nét cho điều đó. Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư Độc điếu song tiền nhất chỉ thư Câu thơ đầu tả cảnh mà chất chứa bao cảm xúc: có chút gì đó ngậm ngùi, chua xót lại có chút gì nuối tiếc, thở than. Một triết lí được nêu ra: hình như cái gì đẹp, cái gì tài hoa trên thế gian này đều là những cái chóng tàn, chóng lụi. Bãi bể nương dâu, thời gian và thế sự có sức huỷ hoại khủng khiếp, vườn hoa thanh nhã của Tây Hồ nối tiếng nay thành ra gò hoang tàn tạ, cô liêu. Ngay từ đây, cái nhìn sâu sắc của Nguyễn Du đã bộc lộ thật rõ nét, hướng đến tâm trạng ngậm ngùi của mình cũng là cách ông thốt lên lời than não nề cho sự vô tình của tạo vật với cái đẹp trên đời. Và biết đâu, “hoa uyển” kia không chỉ là một vườn hoa vắng lặng mà để chỉ những con người “thác là thể phách, còn là tinh anh” như Tiểu Thanh, cô Cẩm, Từ Hải… một thời rạng rỡ vẻ tài hoa thiên phú mà sau bao biến động chỉ còn lại một nấm mồ mờ mịt cỏ xanh? Chẳng còn ai nhớ đến họ, chỉ còn mình ta viếng Tiểu Thanh, viếng tất cả các kiếp tài hoa trên đời bằng một trang giấy trước cửa sổ – sơ sài và lạnh lẽo, đạm bạc biết bao! Người đẹp, người tài là của báu đất trời mà thế gian thực vô tình với họ, bạc bẽo quá, phũ phàng quá: Sống làm vợ khắp người ta Hại thay thác xuống làm ma không chồng. Cảm thông với những người ấy, Nguyễn Du đồng thời cũng bày tỏ niềm phẫn uất, lên án những thế lực chà đạp lên cái đẹp trên đời. Ông thác lời “son phấn hữu thần” để nói về nỗi hận dưới sâu ba tấc đất. Ông ai oán, cám cảnh cho văn chương như gấm như vóc vô tội mà cũng bị đốt dở dang số kiếp con người. Từ do, ông hạ bút hai câu thơ vô tiền khoáng hậu, hai câu thơ dủ sức rung động mọi con tim: Cổ kim hận sự thiên nan vấn Phong vận kì oan ngã tự cư. Ở tít cao xanh, trời già vẫn hay giả điếc, giả ngơ lờ đi mọi tiếng kêu phẫn uất của những kiếp hận xưa và nay. Nhưng điều đáng nói ở đây là vẫn có một người khách cùng hội cũng thuyền với kiếp tài hoa bạc mệnh tỏ lòng tri ki, tỏ nỗi tri âm. Chia sẻ với những nỗi oan lạ lùng, người ấy lắng nghe người, khóc cho người rồi khóc cho chính mình. Ấy là Nguyễn Du. Nguyễn khóc cho Tiểu Thanh, thương cảm cho số kiếp của nàng dẫu cách biệt ba trăm năm lẻ và hai thế giới. Tiếng khóc thương ấy chính là tinh thần nhân đạo da diết bộc lộ từ đáy sâu tâm trạng để rồi: Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? Hôm nay, cất tiếng khóc Tiểu Thanh; vậy ba trăm năm sau, ai sẽ là người khóc Tố Như? Thương cho người và thương cho mình cũng là cầu thêm cho đời nhiều tri kỉ. Dẫu chỉ là một tiếng khóc thầm, “khấp” thôi cũng đã là mãn nguyện rổi. Hỏi tức là còn mong mỏi, còn đợi chờ, lòng Nguyễn Du chua nguội lạnh tình đời, tình người. Qua câu hỏi cuối, Nguyễn Du bày tỏ niềm tin vào lòng thương trong cuộc sống, tin vào con người. Đó chính là căn cốt tích cực của cái nhìn tác giả trong bài thơ. Mấy câu thơ thấm đẫm cảm xúc nội tâm vì thế có bi nhưng không luỵ, chất chứa buồn giận, hận sâu mà không ai oán, mà đủ đầy niềm tin vào chân – thiện – mĩ trong cuộc sống. Nhà văn Nguyễn Khải trong tác phẩm Một người Hà Nội cũng bày tỏ niềm tin, tình yêu vào vẻ đẹp hào hoa của Hà Nội và người Hà Nội. Bà Hiển, là hình tượng trung tâm của truyện, được tác giả dày công xây dựng, kết tinh nhiều vẻ đẹp của con người, qua đó bộc lộ nhiều cách nhìn độc đáo của nhà văn với đời sống. Đó là điều gần như tất yếu. Ở đây tôi muốn dành mối quan tâm đến những nhân vật phụ nhưng không kém phần cao đẹp: Dũng, Tuất – bạn Dũng và bà mẹ Dũng. Ra đi đánh giặc vì lòng yêu nước gắn với tinh thần trách nhiệm, Dũng để lại cho ta ấn người sâu sắc về người Hà Nội hào hoa yêu nước. Nhưng vẻ đẹp của Dũng còn cao trong tình thương và sự quan tâm đến nỗi đau con người. Tuất mất trước ngày phóng mấy ngày, Dũng thấy mình tội lỗi, biết nói sao với mẹ Tuất, bà mẹ mất rong khi “bạn nó còn sống, sống đến tận bây giờ”. Nhân cách người lính không cho phép Dũng im lặng, anh phải đi và phải làm cái việc tưởng chừng không thể làm nổi đó. Nhưng thật kì lạ, người tưởng phải an ủi hoá ra lại là người được an ủi: me Tuất không khóc mà chỉ “run run” trước Dũng đang khóc oà như trẻ con rồi dỗ dành Dũng như dỗ con trẻ: “Dũng, nín đi con! Cô biết cả rồi”. Đó chính là vẻ đẹp hào hoa của người Hà Nội: biết để nước mắt chảy ngược, bình thản trước hi sinh, – luôn quan tâm đến người xung quanh. Đó là cách nhìn ca ngợi và đầy cảm thông của nhà văn qua đời sống nội tâm nhân vật và đã tìm được đường vào mãi mãi. Sáng tác, gửi gắm cách nhìn riêng của mình qua đời sống nội tâm, đó là cách nhà văn trở thành bất tử. (Bài đoạt giải Nhất – 17/20 điểm)
NHẬN XÉT
Bài làm đã đáp ứng cơ bản những yêu cầu đặt ra trong đề bài. Văn viết chắc tay, có cảm xúc và giọng điệu riêng. Diễn đạt lưu loát và trong sáng. Ở câu 1: Với vốn kiến thức sâu rộng, sự trải nghiệm cuộc sống sâu sắc, người viết đã chọn cho mình một châm ngôn sống hay và có ý nghĩa: Hãy sống trong bản hoà ca của xưa và nay. Bố cục bài viết khoa học, hệ thống lập luận giàu sức thuyết phục. Sứ dụng thao tác nghị luận đối sánh để luận bàn về quan niệm sống của con người Việt Nam trong xã hội xưa (trung đại) và nay để làm cơ sở lí giải nguyên nhân lựa chọn châm ngôn sống khá cụ thể và sâu sắc. Trong khi bàn luận về vấn đề, người viết biết nhìn nhận vấn để nhiều chiểu, dám nói thật những suy nghĩ của mình, chẳng hạn như đoạn: Thanh niên thuở trước sống vì đạo, vì cộng đồng chung, vì xã hội, nghĩa là vì những nghĩa vụ cao cả, lớn lao nên rất chóng thành các “ông già” về suy nghĩ. Hay: Thanh niên thời nay cần phải sống trước hết cho mình, trước tiên vì mình; mình phải là người có ích cho mình rồi sau đó mới là hữu ích cho gia đình, xã hội… Thanh niên có quyền mưu cầu lợi ích vật chất và tinh thần cho mình, thanh niên có quyền khẳng định mình, không phải lo ngại tỏ bày ý kiến, suy nghĩ… Phải sống đã đầy, phải sống hết mình, sống thật với mình, quyết đoán, bạo dạn, mạnh mẽ, thanh niên mới có thể nhận thức tài năng, ý chí, mở rộng biên giới tâm hồn mình mang sức mạnh của tuổi trẻ và sức sống trào sôi đánh bại sự khắc khổ, tụt hậu và chậm tiến. Phần kết bài viết hay. Tuy nhiên, cái nhìn về lối sống của người xua có phần chưa chín. Ở câu 2: Cơ bản hiểu rõ vấn để được đặt ra trong để bài: Các nhà văn, nhà thơ nhân đạo lớn thường gửi vào sáng tác một cách nhìn sâu sắc về con người, cách nhìn này hướng đến đời sống nội tâm và cảm xúc. Với vốn kiến thức lí luận văn học khá chắc chắn, nêu ra được những ý xác đáng: Cố gắng nắm bắt tài tình được đời sống bên trong của mỗi người, nhà văn mới có thể nói là “đắc nhân tâm”, hiểu sâu sắc và có cái nhìn đúng đắn với nhân loại đông đúc này. Đó chính là phẩm chất cần thiết của một nhà văn chân chính và cũng là nhà nhân đạo từ trong cốt tuy” (Sê-khốp). Một nhà văn đích thực phải đồng thời là một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn và phải luôn đặt cái tâm của mình lên trang giấy. Cũng vậy, cách thức đưa ra hai cơ sở để lí giải cho vấn đề tỏ ra hợp lý: thứ nhất là do: Đối tương chính của văn học chính là con người; thứ hai là bởi: Hiếu về con người với toàn bộ dáng vóc nội tâm cũng là cách nhà văn bày tỏ suy nghĩ sâu sắc về thế giới và nhân sinh. Chọn hai tác phẩm Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du và Một người Hà Nội của Nguyễn Khải để làm sáng tỏ vấn đề, phần cảm thụ viết sâu sắc, đi đúng trọng tâm, ám sát ý kiến được nêu ở đề bài. Tuy nhiên, vẫn còn một số cản trao đổi với người viết. Ở lí luận, người viết chưa chỉ rõ được cách nhìn sâu sắc về con người… hướng đến đời sống nội tâm và cảm xúc như một yếu tố quan trọng làm nên chiều sâu nhân bản và cả hình thức đặc sắc của tác phẩm văn học; đồng thời là một định cần thiết để tiếp nhận sâu sắc giá trị văn chương nghệ thuật. Phần cảm thụ tác phẩm Một người Hà Nội của Nguyễn Khải để chứng minh cho ý kiến nêu ở để bài chưa cân xứng với phần cảm thụ bài Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du. Kết thúc bài hơi vội khiến người đọc cảm thấy hụt hẫng.
Phần I. Đọc hiểu (3 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: Em là ai ? Cô gái hay nàng tiên Thịt da em hay là sắt là đồng ? Cho tôi hôn bàn chán em lạnh ngắt Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung Ôi trái tim em trái tim vĩ đại Còn một giọt máu tươi còn đập mãi Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời Cho quê hương em. Cho Tổ quốc, loài người! (Người con gái Việt Nam, Tố Hữu, Gió lộng, NXB Văn học, 1961) Câu 1: Đoạn trích trên được sáng tác vào giai đoạn văn học nào? Câu 2: Hình tượng nhân vật trung tâm của đoạn thơ là ai? Hình tượng nhân vật ấy được tác giả thế hiện với thái độ gì? Câu 3: Anh (chị) hãy chỉ ra và phân tích giá trị của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng ở đoạn thơ đầu. Câu 4: Trong khoảng từ 5 – 7 dòng, trình bày suy nghĩ của anh chị về vấn đề lẽ sống của tuối trẻ được đặt ra trong khổ thơ cuối cùng của đoạn trích . Phần II. Làm văn (7 điểm) Câu 1 (2 điểm): Bằng đoạn văn khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của anh (chị) về bài học mà người cha muốn nói với con trong bài thơ sau: Chẳng ai muốn làm hành khất Tội trời đày ở nhân gian Con không được cười giễu họ Dù họ hôi hám úa tàn Nhà mình sát đường họ đến Có cho thì có là bao Con phải răn dạy nó đi Nếu không thì con đem bán Mình tạm gọi là no ấm Ai biết cơ trời vần xoay Lòng tốt gửi vào thiên hạ Biết đâu nuôi bố sau này… (Dặn con, Trần Nhuận Minh) Câu 2 (5 điểm): Có ý kiến cho rằng: Sông Hương là bản tình ca ca ngợi về thiên nhiên và văn hóa xứ Huế. Qua phân tích tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường), hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. |
THẦY KHƯƠNG TRÊN FACEBOOK
|