Bài văn đạt giải quốc gia năm 2014 ( Bài số 1)
Không có phản hồi
Bài văn đạt giải quốc gia năm 2014 ( Bài số 1)
ĐỀ BÀI
Câu 1. (8.0 điểm) Phải chăng, sống là tỏa sáng?
Câu 2. (12,0 điểm) Văn học chân chính ngay cả khi nói về cái xấu, cái ác cũng chỉ nhằm khát vọng về cái đẹp, cái thiện. Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên,
YÊU CẦU LÀM BÀI
Câu 1.
Dạng để này cho phép người viết tự do lựa chọn các cách thể hiện và thao tác tạo lập văn bản khác nhau, nhưng phải phù hợp và nhuần nhuyễn. Đồng thời, người viết cũng được tự do huy động các chất liệu khác nhau như: chất liệu thuộc tri thức sách vở, tri thức đời sống và những trải nghiệm của riêng mình để trình bày ý kiến của cá nhân về một quan điểm sống. Tuy nhiên, vẫn phải xác định rõ vấn đề câu này thuộc về thực tế đời sống xã hội chứ không phải trong văn chương nghệ thuật. Người viết cần phải xác định được một tâm thế đúng đắn là tâm thế của người trong cuộc. Làm bài thi không chỉ đơn thuần là việc giải một bài tập, mà quan trọng hơn, cần xem làm văn là một dịp đối diện với bản thân minh. Không phải chỉ nói cho người khác, về người khác, mà trước hết, cần phải thấy đây là chuyện của minh, phải nỏi từ mình, nói cho mình. Nghĩa là tự nhận thức được về vấn đề để tự hoàn thiện bản thân.
– Giải thích Cân làm sáng tỏ nhận thức của cá nhân về ý nghĩa của cụm từ “taá sáng” và vấn để “sống là toả sáng”.
– Bàn luận + Cần nêu và khẳng định quan điểm của cá nhân về vấn đề “sống là toả sáng” (tán thành hoặc không tán thành). + Quan điểm đó phải được thể hiện bằng lập luận chặt chẽ, với các lí lẽ và dẫn chứng phù hợp. + Trong quá trình bàn luận, người viết cần đặt vấn đề trong bối cảnh cuộc sống hiện nay để làm rõ ý nghĩa thực tiễn của nó. – Liên hệ bản thân + Trình bày được nhận thức và bài học sâu sắc mà cá nhân rút ra được từ vấn đề trên. + Có những phương hướng cụ thể trong việc xác định mục đích sống của cá nhân.
Câu 2.
Người viết cần xác định đây là đề nghị luận văn học để triển khai bài làm đúng kiểu văn bản. Người viết cần phát huy đồng thời hai năng lực: nắm bắt và làm sáng tỏ một vấn đề lí luận văn học, cụ thể là một vấn đề quan trọng trong chức năng của văn học chân chính (hướng thiện và hướng mỹ); cảm nhận và phân tích được khát vọng hướng về cái đẹp, cái thiện thể hiện ở việc phản ánh cái xấu, cái ác trong một số tác phẩm văn học.
– Làm rõ nội dung, ý nghĩa của nhận định + Cần xác định được thế nào là “cái ác”, “cái xấu”, “cái đẹp”, “cái thiện” và những biểu hiện sinh động của nó trong đời sống và trong văn học. + Cản trình bày được mối quan hệ biện chứng giữa đối tượng được phản ánh (cái ác, cái xấu) và mục đích hướng tới của văn học chân chính (cái đẹp, cái thiện). + Cần thấy đây là một nhận định đúng đắn, thể hiện rõ bản chất, ý nghĩa của việc sáng tạo nghệ thuật, nhận định này đồng thời còn có ý nghĩa đối với việc định hướng người đọc khi tiếp nhận tác phẩm văn học nói chung, đặc biệt là những tác phẩm mà nội dung chủ yếu để cập đến cái xấu, cái ác. – Làm sáng tỏ nhận định qua một số tác phẩm văn học + Cần lựa chọn được một số tác phẩm tiêu biểu (trong nước hay nước ngoài) và phân tích được những biểu hiện cụ thể của cái xấu, cái ác trong mỗi tác phẩm. + Từ đó, người viết cần làm nổi bật được khát vọng của nhà văn: thông qua việc miêu tả cái xấu, cái ác, hướng người đọc đến với cảm hứng nhân văn cao đẹp. + Cần nêu bật những độc đáo về nghệ thuật trong việc thể hiện cái xấu, cái ác ở từng tác phẩm.
BÀI LÀM SỐ 1
Câu 1. “Tôi muốn sống như một bông hướng dương”. Cô gái bé nhỏ viết nên những dòng tâm sự ấy khi đang từng ngày phải chiến đấu với căn bệnh ung thư, có những khi nỗi đau dường như vượt quá sức chịu đựng. Lấy tên một loài hoa hướng sáng mạnh mẽ để đặt nhan đề cho cuốn sách đầu tiên và có lẽ cũng là cuối cùng của mình, cô gái ấy muốn nói với chúng ta về khao khát sống mãnh liệt, muốn nhắn nhủ với cả tôi và bạn rằng: “Phải chăng, sống là toả sáng?”. Mỗi một sinh linh trong cõi sống này đều mang trong mình sự sống riêng của nó. Dù chỉ ngắn ngủi như một cánh bướm ngoài kia, kết thúc cuộc đời khi trái đất hoàn thành một vòng quay dài hai tư tiếng; hay là một con người với một kiếp sống đến trăm năm, tất cả đều mang theo cái sứ mệnh thiêng liêng là sống. Sống chứ không phải là tồn tại. Nhất là ở loài người, có một bộ óc để suy nghĩ, một trái tim để yêu thương đùm bọc. Ta không thể chỉ đơn thuần duy trì cái hơi thở trong lồng ngực mà cứ bước đi nghênh ngang giữa cuộc đời. Sống là cần tạo cho mình một giá trị, sống là cần phải toả sáng! Không giống như loài thú sống với bản năng, con người là tổng hoà của những mặt đối lập, những giá trị cao thấp, sang hèn khác nhau. Càng sống ta càng thấy mình chưa hoàn hảo nhưng ta chưa lúc nào lợi lỏng cái khát khao hoàn thiện mình. Một đàn cá hồi phải vượt ngàn dặm thác để đến vùng nước ấm đẻ trứng. Những chú rùa biển vừa chào đời đã phải tự mình tìm đường về với biên khời, nơi những hàm răng sắc nhọn của những loài sinh vật hung tợn đang chực chờ. Sự sống có được đâu phải là dễ dàng và hiển nhiên. Ngay cả con người.cũng vậy. Để ta đến dược với cuộc đời này, mẹ ta trải qua chín tháng mang nặng đẻ đau; trái tim của mẹ, của cha luôn đập những nhịp đập mong ngóng và nồng ấm nhất, hoà cùng với trái tim nhỏ bé của ta trong lồng ngực. Rồi mẹ cha trao cho ta cuộc sống, chăm sóc và nuôi dưỡng ta từng ngày, dạy ta những bài học cuộc đời đầu tiên. Bởi thế sự sống không phải là để phí hoài vô nghĩa, không phải là để ta phung phí đi trong những tháng ngày nông nổi. Mỗi con người sống cần phải tạo nên được một giá trị nào đó. “Toả sáng” là khi ta, chính ta nỗ lực và cố gắng đạt được một thành công nào đó, dâng hiến cho cuộc đời những giá trị vật chất và tinh thần, là khi ta sống như ngọn lửa, cháy bỏng với những mơ ước và khát khao, khi ta truyền đi hơi ấm của sự sống. Toả sáng sẽ làm cho con người trải nghiệm niềm hạnh phúc đích thực được sống ở đời. Ánh sáng mà con người tạo ra là thứ ánh sáng đẹp nhất. Nó hiện hình cuộc sống hằng ngày với bao sắc màu khác biệt. Có những con người tạo nên kì tích lớn, hào quang xung quanh họ rực rỡ vô cùng, nhưng cũng có những đồng loại bé nhỏ, đóng góp cho cuộc đời âm thẩm lặng lẽ. Thứ ánh sáng mà họ tạo ra dịu dàng mà lặng sâu. Giống như mặt trời rực rỡ đem lại sự sống và ánh sáng cho muôn triệu sinh linh toàn trái đất. Nhưng khi mặt trời lặn, ánh trăng lên, những đốm sáng của đom đóm lung linh huyền ảo. Nó làm cho ta không khỏi ngỡ ngàng, nó thôi thúc ta nâng niu sự sống. Điều quan trọng không phải là thứ ánh sáng nào ta sẽ tạo ra mà là hãy sống vì vầng sáng trong tim mình. Chỉ cần ta biết cuộc sống không thể cứ chìm mãi trong tối tăm và sự vô nghĩa lí, ta sẽ khao khát toả sáng mà thôi. Bạn có thấy không, những cuộc đời rạng ngời trong tăm tối? Khi mà bóng tối của cái chết đang đến gần, người ta càng khao khát sự sống hơn. Cô gái Diệu Huyền, tác giả cuốn tự truyện Như hoa hướng dương không hề buông xuôi trước lưỡi hái của thần chết. Cô đã tiếp tục cuộc sống của mình, lấy được tấm bằng tốt nghiệp của một trường đại học. Và ngày ngày vẫn luôn có bao người thân, gia đình và bạn bè sát cánh bên cô. Không lúc nào cái khao khát sống và cống hiến cho ước mơ vơi đi trong lòng cô gái trẻ. Phải chăng khi mà sự sống tưởng như sắp tuột khỏi tay thì học, những con người phi thường mà lặng lẽ, lại biến nó thành những viên ngọc quý lấp lánh trong đời? Khi người ta lâm vào nghịch cảnh, đó lại là cơ hội để họ toả sáng. Quán quân Vua đầu bếp của nước Mỹ – Crít-ti-na Hà giành được chiếc cúp khi mà đôi mắt của cô đã mất đi ánh sáng bởi một căn bệnh từ mười năm trước. Nhưng nhìn vào trong đôi mắt của con, người ta chỉ thấy sáng lên một niềm đam mê với ẩm thực, một tình yêu mãnh liệt với sự sống. Cô đã không gục ngã trên con đường đến với vinh quang. “”ôi không muốn mình bị bỏ lại, tôi muốn làm điều có ích cho những người đã hí sinh mọi thứ để ở bên tôi khi tôi đau khổ nhất”, lời tâm sự ấy đủ để cho ta thấy ánh sáng ấm áp từ trái tim của Crít-ti-na. Vậy đấy, khi trước mặt chúng ta bỗng hiện ra những chông gai thử thách, một bức tường khổng lồ ngỡ không thể vượt qua, thì đó chính là lúc ta cần phải kiên trì và nỗ lực hơn nữa. Bạn có tin vào điều kì diệu trong cuộc sống này? Những con người đã cháy hết mình cho khát khao của họ, và họ đã có được thành công. Nó không phải chỉ là những thành quả được mọi người công nhận mà còn là tấm huy chương danh giá khắc ghi những nỗ lực vượt lên chính mình. Họ đã có thể buông xuôi, có khi đã lùi bước nhưng họ đã lựa chọn tiến lên, dù có phải chịu đựng những đón đau và nhỏ những giọt mồ hôi cùng nước mắt. Vinh quang ấy mới rạng rỡ và hạnh phúc làm sao! Từ ngữ nào đủ để diễn tả niềm vui của Nô-vác Jô-kô-víc khi anh giành chức vô địch Wim-lơn-đơn và bước lên ngôi vị số một thế giới vào năm 2011? Có lẽ giấc mơ từ thuở thiếu thời đã thành sự thực ấy là phần thưởng xứng đáng cho những nỗ lực không mệt mỏi của anh. Nhưng khi trả lời phỏng vấn cho một tờ báo, Nô-vắc đã tâm sự rằng: “Khi nhìn vào chiếc cúp trên tay, tôi nhìn thấy hình bóng của những huấn luyện viên của mình. Họ đã giúp tôi có được ngày hôm nay. Cả gia đình tôi, những người luôn ở bên tôi và biết bao khán giả đã ủng hộ tôi cho đến tận lúc này. Vinh quang này là dành cho họ”. Và ta chợt nhận ra, phía sau hào quang của chiếc in kia là bao thứ ánh sáng bình thường giản dị. Có những người luôn đứng sau cánh gà để cổ vũ động viên. Những ngọn đèn rực rỡ sẽ không bao giờ chiếu sáng đến họ nhưng tự thân họ đã toả thứ ánh sáng diệu kì. Mỗi chúng ta đều có cho mình một người thầy, nhiều người thầy, những người đưa đò tận tuy. Họ đã mang cả tâm huyết, cả trái tim để góp cho ta thứ ánh sáng rực rỡ đến từ tri thức, còn mình thì lấy về mái đầu bạc và những lo toan. Lẽ nào ta lãng quên họ? Nếu ta chỉ ngồi đó và trông chờ ánh sáng tới, ta sẽ không hơn gì một vật phản quang. Ánh sáng nào sẽ đến với Mô-za khi ông mất đi thính giác? Chẳng có luồng sáng thần tiên nào cả, chỉ có bàn tay ông tự tìm tới những phím đàn, soạn nên những khúc giao hưởng đi cùng năm tháng. Mỗi chúng ta hãy tự thắp cho mình một ngọn đèn soi tỏ những ước mơ còn ấp ủ. Hãy biến mình thành ngọn lửa cháy của đam mê. Không có cuộc đời nào trên hành tinh này là vô nghĩa. “Tất cả chúng ta đếu t thiên tài” – Anh-xtanh đã từng nói vậy. Chỉ là ta có thể đánh thức kẻ thiên tài ấy trong tâm hồn mình hay không. Quả là sống cần toả sáng, để khẳng định mạnh mẽ sự tồn tại của bản thân. Nhưng hãy nhớ, đừng chạy theo những gì lấp lánh, đừng bán linh hồn mình cho tiền tài, danh vọng mà chà đạp lên đồng loại. Ánh sáng thực phát ra từ tâm, từ cái thiện ẩn sâu trong lòng người. “Em sẽ lấy anh chứ?” – Đó là lời cầu hôn mà Ních dành cho bạn gái của mình, khi cô chỉ còn chút thời gian ít ỏi ở nhân thế. Năm ngày sau, thần chết đã cướp cô đi. Nhưng trên mỗi cô dâu ấy vẫn nở nụ cười thật tươi bởi ánh sáng của tình yêu mà người chồng đã trao đến trái tim cô, ánh sáng ấy đã đẩy lùi bóng tối. Sống, phải chăng không chỉ là toả sáng cho riêng mình?
Câu 2. Hê-minh-uê từng tâm sự: “Tôi quý hơn cả là những bản thảo vứt đi của mình. Bởi có chúng, tôi mới nhận ra đâu là những ngôn từ thực sự dành cho tác phẩm của mình”. Ta thấm thía câu nói ấy hơn trong đời sống. Có cái ác, cái xấu, ta mới nhận ra và trân trọng cái đẹp, cái thanh cao. Và văn chương, thế nào là tha thiết với hiện thực, phải chăng là những áng văn không từ chối cái ác? “Văn học chân chính ngay cả khi nói về cái xấu, cái ác cũng chỉ nhằm thể hiện khát vọng về cái đẹp, cái thiện”. Đó chính là nguyên cớ sâu xa. Văn học chân chính là thứ văn chương bằng câu chữ đi xây đời. Hai từ “chân chính” xác lập ra một biên giới mà chỉ những cây bút tài năng và bản lĩnh, thực sự tha thiết với cuộc đời mới có thể vượt qua. Văn học chân chính là những áng văn thơ thực sự có giá trị. Những tư tưởng được kết đọng ở tầng sâu, những tình cảm được nung nấu đến độ bỏng sôi mãnh liệt, những ngôn từ thể hiện một bút pháp tài hoa. Tất cả những điều đó góp phần làm nên một tác phẩm chân chính. Cái đích hướng tới của tác phẩm ấy phải là con người, là cuộc đời này với bao thật giả, trắng đen còn trộn lẫn, cả niềm vui, niềm hoan lạc và cả nỗi buồn, sự đớn đau. Văn chương chân chính phải phản ánh được trọn vẹn, sâu sắc đời sống. Nhưng không chỉ phản ánh không thôi, từ “phản ánh” cho đến “nghiền ngẫm về hiện thực” là một khoảng cách lớn. Văn học phải đóng vai trò như “thứ khí giới đắc lực” giúp con người kiến tạo nên thế giới này, ngày một tốt đẹp hơn, ngày một người hơn. Thế nào là một áng văn chân chính? Đó là khi “nói về cái xấu, cái ác cũng chỉ nhằm thể hiện khát vọng về cái đẹp, cái thiện”. Trước hết văn chương ấy không từ chối, né tránh cái ác. Bởi đơn giản điều ấy là không thể. Khi mà cái xấu, cái ác vẫn ngày ngày hiện hữu ở quanh ta. Cuộc đời đâu chỉ có những bông hoa mà còn có cả những hàng rào dây thép. Đâu chỉ tồn tại cái dịu dàng, thơ mộng mà còn có cả những dữ dội, đắng cay. Lảng tránh những mảng tối của đời sống là lảng tránh hiện thực. Văn học không phải là thứ thuốc tê, xoa vỗ con người ta quên đi đau đớn, để rồi sau đó nỗi đau càng nhức buốt, khó chịu đựng hơn. Văn học phải hoà chung vào với hơi thở cuộc đời. Vốn dĩ trong đời người, tốt xấu đã luôn đan xen, phức hỗn và không ít dịp tường tranh, khiến lòng người bao phen dậy sóng. Mà chẳng phải “văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm, mà tâm điểm là con người” hay sao? Đời người còn khó khăn, hoang mang với bao câu hỏi về cái xấu và cái ác, lẽ nào văn học hèn nhát xua tay? Không, văn chương cần nói đến cái ác, cái xấu xa. Thậm chí cần nói về nó thật tỉ mỉ, thật sâu sắc, thật thấm thía như khi nói về cái tốt đẹp. Sự tức giận khi chứng kiến chân lí bị đạp đổ, cái đẹp bị xâm hại, tàn phá cũng thôi thúc nhà văn cầm bút không kém gì cảm hứng ca ngợi cái đẹp. Mà những cái xấu xa luôn đi ngược với cái thiện lương. Chúng giành lấy quyền hiện hữu, choán lấy tâm trí con người, dồn đẩy người ta vào tội lỗi. Chúng đang gào thét giành giật ngoài kia, nếu văn chương không vạch mặt có khi người đời chẳng biết, và bán linh hồn cho nó lúc nào không hay. Văn chương chân chính phải là tiếng chuông cảnh tỉnh con người trước hố đen tội lỗi, tha hoá. Vậy nên nó nói về cái xấu, cái ác nhưng không phải để ngợi ca mà là để con người thấu tỏ cái bản chất mà tránh xa, mà chiến đấu đẩy lùi. “Khát vọng về cái đẹp, cái thiện” lại hiện hình qua việc lật tẩy bản mặt của cái xấu, trong văn chương điều ấy không xa lạ. Thậm chí nó trở thành phương cách để văn học thực hiện chức năng của nó. Nếu chỉ toàn ngợi ca cái đẹp, cái tốt, văn chương rất có thể khiến người đọc mỉm cười, hạnh phúc, tin tưởng ở cuộc sống. Nhưng khi mang cái xấu cái ác ra, tác giả gây cho người đọc cái ấn tượng mạnh mẽ, khiến cảm xúc của họ trào sôi. Một khi văn chương tạo ra được ở người đọc cơn sóng lòng dữ dội nghĩa là nó đã bắt ta thôi thờ ơ, thôi hời hợt. Nó bắt ta trăn trở và suy nghĩ. Và từ cái cách mà nhà văn miêu tả cái ác đến thậm tệ, khắc hoạ cái xấu, xấu đến ghê tởm, người đọc tự sẽ cảm nhận được thái độ của người viết ẩn giấu đằng sau. Không, không hề ca ngợi cái ác. Nhà văn đang phê phán nó, để thế giới này tốt đẹp hơn, đáng sống hơn. Văn học chân chính là vậy, nó không lùi bước trước cái ác mà lật đổ nó bằng ngôn ngữ sắc sảo của mình. Từ thuở hồng hoang, khi con người mới bắt đầu có những nhận thức đầu tiên về thế giới, người ta đã mang cả cái thiện và cái ác vào trong những câu chuyện kể ngàn xưa. Thần thoại Hi Lạp mở ra cả một thế giới những vị thần ngự trên đỉnh cao mà chi phối cả thế gian. Mỗi cuộc giao tranh của họ làm biến đổi cả thế giới. Thế nhưng dù tôn kính thần linh đến vậy, con người cũng không chỉ biết ngợi ca. Họ cũng nói tới những thói tật, những phần khiếm khuyết của cả người và thần. Con người lắm khi hiếu chiến và ích kỉ, bao nhiêu tai hoạ giáng xuống để trừng phạt những kẻ chà đạp lên hạnh phúc. Thế nhưng hãy nhìn thánh thần kia! Họ chẳng phải cũng quá vô tình khi ăn thịt cả đứa con để bảo vệ ngai vàng trên đỉnh Ô-lympi-a? Chẳng phải họ cũng có thể đấu đá nhau chỉ vì một thỏi vàng, họ cũng có lòng tham?… Thần thánh ấy cũng là hiện thân của loài người. Và tất cả đều có những điều chưa hoàn mĩ, những gót chân A-sin. Nhưng thần thoại trưng ra cái tầm thường của cả người và thánh không phải để ngợi ca hay khuyến khích, cũng không phải để bào chữa cho sự bất toàn của thế gian, mà để làm nổi bật lên hình dáng của những người anh hùng mang khát khao hạnh phúc và công lí, khát khao muôn thuở của loài người. Héc-quyn bị bỏ rơi dưới trần gian, nhưng rồi chàng đã quay trở về để đòi lại công bằng. Trải qua bao cuộc chiến với những vị thần tối thượng, Héc-quyn với sức vóc được con người nuôi dưỡng đã chiến thắng tất cả. Chàng thắng bởi chàng không tàn bạo. Cuối cùng thánh thần cũng chỉ hơn loài người ở sự bất tử mà thôi. Nhưng sự bất tử ấy đôi khi ta không cần tới. Cái ta cần là tình yêu và hạnh phúc trần gian. Quay về đời sống dân gian Việt Nam với những trang truyện cổ tích màu nhiệm. Ta luôn thấy tồn tại trong thế giới ấy hai tầng lớp. Những người dân hiền lành tốt bụng nhưng lại luôn bị những kẻ xấu hãm hại. Cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác luôn diễn ra quyết liệt với phần thắng dành cho cái thiện. Đó là cách mà nhân dân ta nói tới cái xấu để tôn vinh cái đẹp. Mẹ con dì ghẻ trong truyện Tấm Cám hiện ra thật xấu xa, bỉ ổi khi năm lần bảy lượt ra tay tàn độc với Tấm. Nhưng tác giả dân gian đâu có ngợi khen. Bằng chứng là sự hoá thân trở về của Tấm. Từ một cô gái yếu đuối chỉ biết ôm mặt khóc mỗi khi bị hành hạ đọa đày, Tấm đã mạnh mẽ đấu tranh để giành lại hạnh phúc xứng đáng của mình. Xây dựng hình ảnh xấu xa, ti tiện của mẹ con Cám làm đối trọng với vẻ đẹp của Tấm, tác giả dân gian đã gửi gắm vào đó một cái nhìn nghiêm khắc với cái ác. Kẻ làm điều xấu, điều ác sẽ phải nhận một kết cục bi thảm do những tội lỗi nó gây ra. Vậy là hầu hết những câu chuyện dân gian đều nhắc tới cái ác, cái xấu, từ hình thức cho đến bản chất của nhân vật nhưng vẫn là hành trang thân thiết của tuổi thơ, dạy cho con trẻ những bài học đầu đời, ươm mầm khát vọng lương thiện nơi tâm hồn thơ trẻ sáng trong. Kho vốn dân gian ấy là một kết tụ của những áng văn học chân chính giàu tính thẩm mĩ mà mỗi người lớn chúng ta, mỗi lần gặp lại đều khám phá và cảm nghiệm ra những giá trị mới mẻ và thấm thía. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, Vùi con đỏ xuống dưới hầm tại vạ. Những tội ác mà “trúc Lam Sơn không ghi hết” ấy, nghìn đời không thể dung thứ. Và tác giả của áng “thiên cổ hùng văn” đã thể hiện rất rõ thái độ căm hận đối với tội ác quân thù, giống như Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn khi xưa mang mối hận “chưa xẻ thịt, lột da, nuốt gan, uống máu” quân thù. Cái khát vọng bình yên no ấm cho nhân dân, khát vọng tự do cho dân tộc đã được thể hiện qua cách mà các nhà thơ, cũng là những viên tưởng trực tiếp chiến đấu chống ngoại xâm, gửi Bắm trong thơ ca. Cái ác trong văn chương của họ hiện lên làm bất cứ người dân Việt Nam nào cũng phải trào sôi nỗi căm hận quân thù và xót thương cho số phận nhân dân ta, Không chỉ phơi bày cái ác đến từ ngoại bang, các nhà thơ còn vạch ra căn bệnh của chính quốc dân mình. Như Tú Xương đã không ít lần bày ra cái lồ bịch, nhố nhăng, cái loạn của xã hội nước ta khi bước chân thực dân ùa đến. Lôi thối sĩ tử vai đeo lọ Ậm oẹ quan trường miệng thét loa Nhà thơ bày ra cái sự đi xuống của nền nếp khoa bảng, tự khắc hoạ nỗi nhục của sĩ tử văn nhân khi trong hội thi của Việt Nam lại thấy bóng dáng của quản xứ, bà đầm. Tú Xương phơi bày cái thực trạng đáng hổ thẹn ấy bằng giọng hài hước, mỉa mai. Ấn sau đó đâu phải là cái đắc ý. Có người dân yêu nước nào lại đắc ý trước cảnh nước mất nhà tan. Sự cay đắng cũng là khao khát của nhà thơ về độc lập và bình yên của đất nước. Tấm lòng tha thiết ấy lại được ẩn sâu đằng sau những vần thơ châm biếm như lời mỉa mai, chế giễu của Tú Xương. Cho đến thời hiện đại, những nghệ sĩ chân chính tiếp nối dòng văn chiến đấu của cha ông vẫn không ngừng lên án cái xấu và cái ác. Họ đưa vào trong văn chương những bộ mặt “chó đểu” nhất của xã hội. Không còn bị kìm kẹp bởi lễ nghi phong kiến, văn chương hiện đại có thể thoả sức phơi bày những căn bệnh xã hội. Vũ Trọng Phụng đã dựng lên trong trang viết của ông cả một “tấn trò đời”. Tất thảy những gì được dán mác văn minh, tiến bộ đều hoá ra suy đồi, kệch cỡm. Một đám ma to hội đủ tất cả những gì lố lăng bát nháo. Một đám ma mà ai nấy đều vui mừng hí hửng. Không có lấy một giọt nước mắt nhỏ xuống cho người đã khuất mà chỉ có tiếng khóc giả tạo “Hứt!.. Hút!.. Hứt!..” để che giấu một màn thanh toán sòng phẳng. Nó nói lên cái bản chất để tiện của lão Phán, cái thói háo danh đến gàn dở của cụ cố Hồng, cái vô tình bạc nghĩa của đám cháu con. Phải chăng Vũ Trọng Phụng muốn bôi đen cuộc sống? Không, ông chỉ “muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời”. Ông nói lên cái khao khát một xã hội tốt lành lương thiện, nơi người ta sống với nhau bằng những chân giá trị và bằng tình yêu thương. Giọng phê phán nổi rõ trong từng câu chữ của Số đỏ, cái mỉa mai ẩn giấu một nụ cười cay đắng, một giọt nước mắt vị đời. Tôi biết một nhà văn. Dù người ta gọi ông bằng danh xưng cao quý nào chăng nữa, ấn tượng của tôi về ông đó là kẻ đau nỗi đau của những giấc mộng phù phiếm của Pa-ri. Đó là Ban-dắc. Ông đã dựng lên “tấn trò đời” của xã hội Pháp để người dọc ông không thể dửng dưng. Thử hỏi ai có thể dùng dung cho được trước hình ánh lão Gô-ri-ô, khốn khổ cả đời vì con cuối cùng chết trong đơn độc, chỉ nhận được giọt nước mắt thương vay của một người không cùng máu thịt. Mô tả những sự xói mòn dạo đức xảy ra như cơm bữa như thế, nhà văn gửi gắm cái khát vọng thay đổi xã hội phù phiếm, vô cảm lúc bấy giờ. Đó là lí do cả thế giới tôn vinh ông. Ý kiến đã nêu lên một nhận xét đúng đắn về văn học. Không từ chối dấn sâu vào cái ác, lột tả nó một cách thấm thía để người đọc có thể nhận ra và khát khao loại bỏ. Nếu văn học chỉ đơn thuần làm lan truyền nỗi buồn, sự tuyệt vọng đến cho người đọc thì quả thực là đáng buồn. Văn học phải là ngọn hải đăng định hướng đến với chân lí. Dĩ nhiên ta vẫn cần những áng văn đẹp đẽ giúp ta nhận thức về cái hay của thế giới, giúp ta sống lạc quan và yêu cuộc đời hơn. Nhưng văn học, đôi khi cần là thứ thuốc đắng dã tật. (Bài đoạt giải Nhất – 18/20 điểm) NHẬN XÉT
Những yêu cầu đặt ra trong đề bài đã được bài làm đáp ứng khá tốt. Ở câu 1: Người viết đã đồng tình và bày tỏ quan điểm rất sâu sắc của mình về vấn đề “sống là toả sáng”. Bài viết có cách lập luận khá thuyết phục. Từ việc nhận thấy con người cần sống chứ không phải là tồn tại, người viết khẳng định: “Toả sáng” là khi ta, chính ta nỗ lực và cố gắng đạt được một thành công nào đó, dâng hiến cho cuộc đời những giá trị vật chất và tinh thần, là khi ta sống như ngọn lửa, cháy bỏng với những mơ ước và khát khao, khi ta truyền đi hơi ấm của sự sống. Toả sáng sẽ làm cho con người trải nghiệm niềm hạnh phúc đích thực được sống ở đời. Tiếp đó, bài viết tập trung bàn luận sâu ở khía cạnh có những con người bình dị, gặp nhiều bất hạnh trong cuộc đời họ vẫn có khát vọng “sống là toả sáng” và cuối cùng là những thức nhận về cách thức và con đường để “toả sáng”. Văn viết có những đoạn rất chắc tay và thể hiện được những trải nghiệm cuộc sống sắc sảo, chẳng hạn như: Nếu ta chỉ ngồi đó và trông chờ ánh sáng tới, ta sẽ không hơn gì một vật phản quang. Ánh sáng nào sẽ đến với Mô-da khi ông mất đi thính giác? Chẳng có luồng sáng thần tiên nào cả, chỉ có bàn tay ông tự tìm tới những phím đàn, soạn nên những khúc giao hưởng đi cùng năm tháng. Mỗi chúng ta hãy tự tháp cho mình một ngọn đèn soi tỏ những ước mơ còn ấp ủ. Hãy biến mình thành ngọn lửa rực cháy của đam mê. Hay đoạn: Quả là sống cần toả sáng, để khẳng định mạnh mẽ sự tồn tại của bản thân. Nhưng con người ơi, đừng chạy theo những gì lấp lánh, đừng bán linh hồn mình cho tiền tài, danh vọng mà chà đạp lên loại. Ánh sáng thực phát ra từ tâm, từ cái thiện ẩn sâu trong lòng người. Tuy nhiên, bài viết thiếu cảm xúc riêng tư của cá nhân, chưa bộc bạch được khát vọng “sống là toả sáng” của bản thân người viết nên có phần kém hấp dẫn, Dẫn chứng nhiều nhưng chưa phong phú. Phần kết viết chưa hay.
Ở câu 2: Người viết hiểu đúng vấn đề được đặt ra trong đề bài: Văn học chân chính cả khi nói về cái xấu, cái ác cũng chỉ nhằm thể hiện khát vọng về cái đẹp, cái thiện. Với vốn kiến thức lí luận văn học khá chắc chắn, về cơ bản người viết đã làm sáng tỏ vấn đề quan trọng trong chức năng của văn học chân chính, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa đối tượng được phản ánh (cái ác, cái xấu) và mục đích hướng tới của văn học chân chính (cái đẹp, cái thiện). Người viết cũng đã lựa chọn được một số tác phẩm tiêu biểu từ văn học dân gian đến văn học hiện đại cả của Việt Nam và nước ngoài để phân tích được những biểu hiện cụ thể của cái xấu, cái ác trong mỗi tác phẩm, làm nổi bật được khát vọng của nhà văn: thông qua việc miêu tả cái xấu, cái ác, hướng người đọc đến với cảm hứng nhân văn cao đẹp. Người viết cũng có ý thức phân tích những độc đáo về nghệ thuật trong việc thể hiện cái xấu, cái ác ở từng tác phẩm được chọn làm dẫn chứng. Văn viết có cảm xúc, có hình ảnh. Diễn đạt tương đối lưu loát và trong sáng. Phần I. Đọc hiểu (3 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: Em là ai ? Cô gái hay nàng tiên Thịt da em hay là sắt là đồng ? Cho tôi hôn bàn chán em lạnh ngắt Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung Ôi trái tim em trái tim vĩ đại Còn một giọt máu tươi còn đập mãi Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời Cho quê hương em. Cho Tổ quốc, loài người! (Người con gái Việt Nam, Tố Hữu, Gió lộng, NXB Văn học, 1961) Câu 1: Đoạn trích trên được sáng tác vào giai đoạn văn học nào? Câu 2: Hình tượng nhân vật trung tâm của đoạn thơ là ai? Hình tượng nhân vật ấy được tác giả thế hiện với thái độ gì? Câu 3: Anh (chị) hãy chỉ ra và phân tích giá trị của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng ở đoạn thơ đầu. Câu 4: Trong khoảng từ 5 – 7 dòng, trình bày suy nghĩ của anh chị về vấn đề lẽ sống của tuối trẻ được đặt ra trong khổ thơ cuối cùng của đoạn trích . Phần II. Làm văn (7 điểm) Câu 1 (2 điểm): Bằng đoạn văn khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của anh (chị) về bài học mà người cha muốn nói với con trong bài thơ sau: Chẳng ai muốn làm hành khất Tội trời đày ở nhân gian Con không được cười giễu họ Dù họ hôi hám úa tàn Nhà mình sát đường họ đến Có cho thì có là bao Con phải răn dạy nó đi Nếu không thì con đem bán Mình tạm gọi là no ấm Ai biết cơ trời vần xoay Lòng tốt gửi vào thiên hạ Biết đâu nuôi bố sau này… (Dặn con, Trần Nhuận Minh) Câu 2 (5 điểm): Có ý kiến cho rằng: Sông Hương là bản tình ca ca ngợi về thiên nhiên và văn hóa xứ Huế. Qua phân tích tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường), hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. |
THẦY KHƯƠNG TRÊN FACEBOOK
|