AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?
Không có phản hồi
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG? (Trích)
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại thành phố Huê, quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, tỉnh Quảng Trị. Ngay khi còn là sinh viên và đi dạy học, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tích cực tham gia các phong trò yêu nước chống Mĩ – ngụy ở nội thành thành phố Huế. Năm 1966, ông lên chiến khu, tham gia cuộc kháng chiến chống Mĩ bằng hoạt động văn nghệ. Ông từng là Tổng thư ký Hội Văn học nghệ thuật Trị Thiên – Huế, Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt. Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn vừa cầm bút vừa cầm súng, có phong cách độc đáo và đặc biệt sở trường về thể văn bút ký, tùy bút. Ký của ông có một diện mạo riêng – vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ, nội dung thông tin về văn hóa, lịch sử rất phong phú – có những đóng góp mới cho văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ai đã đặt tên cho dòng sông? được tác giả viết tại Huế, ngày 4-1-1981, in trong tập sách cùng tên. Bài bút ký có ba phần. Văn bản trong sách giáo khoa là phần thứ nhất.
Sông Hương là một dòng sông nổi tiếng chảy giữa lòng thành phố Huế ( Huế đọc chệch đi là Hóa – xưa xứ Huế được gọi là Thuận Hóa). Khi gọi Châu Hóa như tác giả viết trong bài tùy bút thì hiệu quả là gợi ngay một ấn tượng về miền đất lịch sử. Hai nguồn chính làm nên dòng sông này là dòng Tả Trạch và Hữu Trạch phát nguồn từ dãy Trường Sơn đổ về, hợp lưu lại ngã ba Bằng Lãng tạo thành sông Hương. Sông Hương chảy từ Bằng Lãng đến cửa Thuận An, vượt qua chừng 30km với tốc độ dòng chảy chậm, hiền hòa. Nguyên nhân là do độ chênh giữa mực nước sông và nước biển không lớn nên dòng chảy không mạnh. Cũng có một số nhân tố khác mà chính bài ký có nói: Những chi lưu là những nhánh sông đào hai bên sông và hai hòn đảo nhỏ trên sông cũng làm giảm lưu tốc của dòng chảy. Huế là nơi thi hào Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều,từng sống. Do đó, mở đầu bài ký, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã liên tưởng dòng sông với tình yêu trong Truyện Kiều, một cách bắt đầu câu chuyện hấp dẫn vì đặt hình tượng dòng sông vào ngữ cảnh văn hóa toàn dân tộc. Ông viết: “Chính sông Hương và thành phố của nó vẫn gợi cho tôi, như một vang bóng trong thời gian, hình tượng của cặp tình nhân lý tưởng của Truyện Kiều: tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc, và cả hai cùng gắn bó với nhau trong một tình yêu muôn thuở”. Ai đã đặt tên cho dòng sông? là nhan đề bài tùy bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Thực ra, truy tìm nguồn gốc tên gọi sông Hương chỉ là cái cớ để tác giả bộc lộ tình yêu dòng sông, yêu quê hương xứ sở tươi đẹp, với bề dày truyền thống văn hóa và cách mạng. Đoạn trích đã lược bớt phần tác giả bà về cội nguồn tên gọi Hương Giang. Để hiểu đầy đủ về vấn đề này, chúng tôi xin cung cấp một cách ngắn gọn các cách cắt nghĩa tên gọi sông Hương đã được các nhà nghiên cứu tổng hợp. Về cơ bản, đến nay có bốn cách giải thích khác nhau về cội nguồn tên gọi của sông Hương:
Một cách lý tưởng, để hiểu được đầy đủ bài tùy bút đặc sắc này, người đọc cần cso một số hiểu biết nhất định về xứ Huế. Chẳng hạn nếu có cơ hội một lần đến thăm các lăng tẩm ở Huế thì sẽ cảm nhậ hết cái so sánh ví von dòng Hương Gian chạy qua khu vực này có vẻ đẹp trầm mặc nhất; hoặc nếu ta có một lần đến cầu Tràng Tiền vắt qua sông Hương, sẽ hiểu chính những nhịp cầu có dáng cong như cầu vồng trên cây cầu này gợi ý cho so sánh của tác giả “như những vành trăng non”. Tác giả dẫu là tài hư cấu, tưởng tượng đến mấy thì vẫn là dựa trên cơ sở những gợi ý từ hiện thực.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán- Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi [đồng Chủ biên], NXB Giáo dục, 2004), bút ký là một thể ký có quy mô trương ứng với truyện ngắn nhưng khác truyện ngắn ở chỗ tác giả bút ký không sử dụng hư cấu vào việc phản ánh hiện thực. Bút ký ghi lại những con người thực và sự việc mà nhà văn đã tìm hiểu, nghiên cứu cùng với những cảm nghĩ của mình nhằm thể hiện một tưởng tượng nào đó. Sức hấp dẫn và thuyết phụ của bút ký tùy thuộc vào tài năng, trình độ quan sát, nghiên cứu, khám phá, diễn đạt của tác giả đối với các sự kiện được dề cập đến nhằm khám phá ra các khía cạnh “có vấn đề”, những ý nghĩa mới mẻ, sâu sắc trong va chạm giữa tính cách và hoàn cảnh, cá nhân và môi trường. Bút ký có thể thiên về văn học, cũng có thể thuộc về báo chí tùy theo mức độ biểu hiện cái riêng của tác giả và mức độ sử dụng các biện pháp nghệ thuật cùng tính chất tác động của nó đối với công chúng. Chúng ta vừa làm quen với thể tùy bút qua bút ký Sông Đà của Nguyễn Tuân. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng là nhà văn viết tùy bút tài hoa nổi tiếng. Thể tùy bút cho phép tác giả kể, tả và phát biểu trực tiếp, không hạn chế các suy nghĩ, cảm xúc, bình luận thể hiện “cái tôi” của mình. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã biết khai thác tối đa đặc trưng của tùy bút khi viết sông Hương, một đối tượng chiếm lĩnh có những điểm khác nhau căn bản so với Sông Đà của Nguyễn Tuân.
Đoạn trích có hai phần với hai nội dung chính riêng, phân biệt bằng dấu sao. Phàn đầu dành cho những dòng bình luận, suy ngãm về cảnh quan tự nhiên của sông Hương và những cảnh quan nhân tạo hai bền bờ dòng sông; phần thứ hai viết về lịch sử và văn hóa đôi vờ sông Hương.
Nhà văn sử dụng ngôn ngữ tự sự nhưng không phải là tự sự về một đối tượng của khoa Địa lý học mà như kể về một sinh thể, một cô gái. Và song song một dòng mạch trữ tình theo tuyến tự sự. Kể, tả và bình luận được kết hợp nhuần nhuyễn làm nên chất tùy bút đặc trưng của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Để viết thiên tùy bút, nhà văn phải là người rất am hiểu và có tình cảm gắn bó thân thiết với dòng sông. Nhưng để tác phẩm thành công, tác giả phải có tài năng văn chương thật sự. Sông Hương từ dải Trường Sơn đổ ra biển Đông có hai chặng khác nhau. Chặng thư snhaats từ ngọn nguồn trên sườn Đông dải Trường Sơn quanh co qua các dải đồi núi; chặng thứ hai, khi mặt dòng nước dòng sông đã phẳng lặng dần đến khi gặp chùa Thiên Mụ là bắt đầu tìm đúng đường về thành phố. Nhà văn ngược lên tận ngọn nguồn con sông để nhận diện nó rồi xuôi theo dòng để quan sát nó lượn quanh thành phố Huế. “Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”. Và kết quả là một phát hiện “Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. “Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già […] và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Đây là những so sánh nhân cách hóa thật đặc sắc. Nhiều tên gọi các dòng sông gắn với hình ảnh người mẹ (sông Mê Kông và sông Hồng – còn gọi là sông Cái – đều là những sông Mẹ), nhưng tác giả đã thích so sánh sông Hương với người thiếu nữ. Người viết lần theo dòng chảy con sông không phải với tư cách là nhà địa lý hay người đi vẽ bản đồ mà là như một chàng trai khám phá tính cách của cô gái. Từ góc nhìn đó, những tư tưởng và so sánh thú vị xuất hiện. Dòng sông như một cô gái đẹp đã nằm ngủ từ bao giờ giữa cánh đồng hoang dại của Châu Hóa, rồi đến khi có “người tình mong đợi” đã đến đánh thức người đẹp – người tình đây hẳn là thành phố Huế, song sự xuất hiện của Huế lại gắn liền với con người, lại không thể tách rời với tiến trình Nam tiến của dân tộc. Dòng sông tạo nền tảng để xuất hiện văn hóa, văn minh, song cũng đợi con người để hiện thực hóa tiềm năng đó. Những câu văn có sức gợi liêng tưởng vô cùng, tùy thuộc vào vốn sống, sự từng trải và quan tâm của người đọc. Xuống đến đồng bằng, dòng sông uốn lượn qua nhiều khúc quanh để đến gặp thành phố. Từ chùa Thiên Mụ, dòng sông đã tìm đúng hướng về “Từ đây, như đã tìm đúng hướng về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc, phía đó, nơi cuois cùng, nó đã tìm thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Tác giả hình dung đó là những chuyển động “uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”. Không những đặc tả các đường uốn lượn, tác giả còn có quan sát và cách diễn đạt thú vị về màu sắc con sông. Sắc sông trở nên xanh thẳm khi đến chân núi Hòn Chén (tác giả dùng tên chữ là Ngọc Trản – nguyên nghĩa là Chén Ngọc), vùng đồi núi lô nhô và lăng tẩm tạo nên vẻ đẹp trầm mặc nhất cho con sông. Dòng sông chảy qua Huế đi chậm “cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”. So sánh sự bình yên, “điệu nhảy lặng lờ” của nó khi ngang qua thành phố với dòng chảy gấp gáp của sông Nê- va khi đi qua Lê-nin-grat (nay là Xanh-pê-téc-bua) nước Nga, liên tưởng đế triết lý của Hê-ra-clit “không thể tắm hai lần trong một dòng sông” là đoạn văn tài hoa, trí tuệ mà cũng rất hấp dẫn. Cảnh quan thiên nhiên góp phần tạo nên những nền văn hóa đặc sắc. Dù tả cảnh quan dòng sông, tác giả luôn liên tưởng, mở rộng suy ngẫm về đặc trưng riêng của dòng sông Hương, quan sát không gian văn hóa hình thành quanh đôi bờ và dọc theo dòng sông. “Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya […] toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Khoang thuyền, mái chèo khuya đều là những hình ảnh liên hệ với dòng sông. Đến đây, nhà văn lại liên tưởng đến những bản đàn trong Truyện Kiều bất hủ như một minh chứng hùng hồn cho vai trò văn hóa của sông Hương. Trước khi giã từ thành phố để về với biển cả, “nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình. Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao […] tôi gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Rồi lại so sánh với nàng Kiều “Và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả”. Nhìn chung, cảnh quan sông Hương được nhìn ngắm từ góc nhìn văn hóa. Nhà văn suy ngẫm đầy chất trữ tình về không gian văn hóa trên hai bờ sông Hương. Uyên bác, lịch lãm, từng trải và tài hoa là những phẩm chất dễ thấy của tác giả trong phần này.
Sông Hương – mà cũng là Huế – đã có lịch sử của nó trong dòng chảy của lịch sử dân tộc. Không thể tách rời sông Hương với lịch sử dân tộc, càng không thể tách rời nó với Huế. Cảm hứng ấy toát lên từ những câu văn tự sự tưởng như khô khan. “Hiển nhiên là sông Hương đã sống những thế kỷ vinh quang với nhiệm vụ lịch sử của nó, từ thuở nó còn là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng. Trong sách địa dư của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỷ trung đại”. Càng về cuối thời trung đại, trong các thế kỷ XIVIII, XIX, Huế và sông Hương càng có mặt nhiều hơn trong các sự kiện lịch sử “long trời lở đất” và tiếp tục truyền thống ấy qua Cách mạng tháng Tám, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. “Thế kỷ mười tám, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỷ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển”. Đến thời hiện đại, Huế và sông Hương đã có những hi sinh, mất mát đầy cống hiến cho lịch sử cách mạng dân tộc. Đến đay, dường như sông Hương tạm lùi vào hậu trường để Huế hiện ra trên tiền cảnh. Nhà văn trầm tư trên sự kiện lịch sử – cuộc Tổng tiến công mùa xuân 1968, khi toàn miền Nam từ Quảng Trị đến Nam Bộ, trong đó có Huế, đồng loạt nổi dậy đánh Mĩ. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đó cho thấy sức mạnh của cách mạng, làm suy yếu kẻ thù, buộc chúng phải điều chỉnh chiến lược cả trên chiến trường và trên bàn Hội nghị Pa-ri. Nhưng mặt khác, trong cuộc chiến đấu ấy, Huế cũng chịu nhiều tổn thất: “Cùng với niềm cổ vũ nồng nhiệt dành cho nó trong mùa xuân Mậu Thân, Huế đã nhận được những lời chia buồn sâu sắc nhất của thế giới về sự tàn phá mà đế quốc Mĩ đã chụp lên những di sản văn hóa của nó”. Sự đánh giá tổn thất, hi sinh mà Huế gánh chiu được nhìn từ cả hai phía. Chính người Mĩ đã lên án sức phá hoại tàn bạo đối với Huế do các trận bom của Mĩ. Nhưng thật xúc động là hình ảnh người Đại tướng “đầu cúi xuống ngực, hai bàn tay chắp lại trong cử chỉ kính cẩn của người già mắt ngấn lệ” khi nói đến “cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc” của thành phố Huế. Không có chữ nào nói về mất mát, hi sinh nhứng “ngấn lệ” trong mắt “người già” đã nói lên tất cả. Sông Hương, dòng sông của những sự kiện lịch sử hào hùng và dòng sông của cuộc sống hàng ngày. “Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước”. Tại sao đang suy ngẫm về lịch sử, tác giả lại chuyển đột ngột sang hình ảnh sắc áo cưới của Huế rất xưa mà các cô dâu vẫn mặc? Có thể đoán rằng, nhà văn muốn nói đến sự sống hiền hòa, dịu dàng vẫn là mạch sống chính của xứ Huế, của dòng sông Hương, khuôn mặt thực hiền hòa của dòng sông đôi khi ẩn giấu trong màn sương. Sông Hương là suối nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca, nhạc họa. Mỗi nhà nghệ sĩ đều có khám phá riêng về dòng sông, hay như cách nói của tác giả muốn nhấn mạnh tính chủ động của con sông như một sinh thể “dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Từ Nguyễn Du với Truyện Kiều bất hủ, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan, Tản Đà, đến thi ca cách mạng. Thi ca cùng với kiến trúc, âm nhạc, hội họa góp phần làm cho không gian văn hóa sông Hương thêm phong phú, giàu bản sắc.
Như đã nói, bài bút ký thuộc thể loại tùy bút. Nhà văn đã kết hợp phong cách khảo cứu với sự thể hiện kiến thức sách vở uyên bác; bộc lộ sự lịch lãm, từng trải với vốn sống phong phú, sâu sắc; khả năng phân tích, bình luận thực tế, sắc sảo và một trái tim giàu tình cảm, giàu tình yêu thương con người và quê hương đất nước. Thiên tùy bút như một tác phẩm mẫu mực viết về thắng cảnh quê hương đất nước. dòng sông như một sinh thể sống động. Dòng sông tạo nên cả một không gian văn hóa. Dòng sông qua lịch sử lâu đời, có những trang bi hùng song trong trường kỳ lịch sử, nó đẹp và thân thương như một người con gái. Những điểm nhìn đa chiều giúp người đọc yêu dòng sông hơn, tự hào về quê hương, đất nước hơn. Trong thiên tùy bút, tác giả chuyển đổi giọng điệu khá linh hoạt. Khi là lối kể tự sự, khi lại là sự tưởng tượng bay bổng với những hình ảnh bất ngờ. Chẳng hạn, ngay trong một đoạn văn, ta cũng thấy sự thay đổi này: “Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”. Có khi là cả một đoạn văn chính luận khô khan sau đó là những cử chỉ im lặng đầy xúc động như đoạn văn viết về cuộc Tổng tiến công Mậu Thân. Sự xen kẽ giữa tả, kể về sông Hương với sự vận dụng kiến thức sách vở và kiến thức cuộc sống cũng là một nhân tố tọa nên chất tùy bút đặc sắc. Tác giả đã có dịp đi qua nhiều dòng sông lớn trên thế giới như sông Xen, sông Đa-nuýp, sông Nê-va, đó là vốn sống; tác giả thuộc Truyện Kiều, thơ Cao Bá Quát, Tản Đà, dẫn cả tư tưởng biện chứng của Hê-ra-clit,… đó là học vấn. Tác giả có quan điểm riêng về nghệ thuật Huế: “Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày, hoặc trên sân khấu nhà hát. Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”, đó là sự lịch lãm, tinh tế trong trải nghiệm và quan sát. Nhìn chung, tùy bút cho phép tác giả bộ lộ toàn diện các phẩm chất trí tuệ và cảm xúc của mình. TRẦN NHO THÌN Phần I. Đọc hiểu (3 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: Em là ai ? Cô gái hay nàng tiên Thịt da em hay là sắt là đồng ? Cho tôi hôn bàn chán em lạnh ngắt Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung Ôi trái tim em trái tim vĩ đại Còn một giọt máu tươi còn đập mãi Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời Cho quê hương em. Cho Tổ quốc, loài người! (Người con gái Việt Nam, Tố Hữu, Gió lộng, NXB Văn học, 1961) Câu 1: Đoạn trích trên được sáng tác vào giai đoạn văn học nào? Câu 2: Hình tượng nhân vật trung tâm của đoạn thơ là ai? Hình tượng nhân vật ấy được tác giả thế hiện với thái độ gì? Câu 3: Anh (chị) hãy chỉ ra và phân tích giá trị của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng ở đoạn thơ đầu. Câu 4: Trong khoảng từ 5 – 7 dòng, trình bày suy nghĩ của anh chị về vấn đề lẽ sống của tuối trẻ được đặt ra trong khổ thơ cuối cùng của đoạn trích . Phần II. Làm văn (7 điểm) Câu 1 (2 điểm): Bằng đoạn văn khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của anh (chị) về bài học mà người cha muốn nói với con trong bài thơ sau: Chẳng ai muốn làm hành khất Tội trời đày ở nhân gian Con không được cười giễu họ Dù họ hôi hám úa tàn Nhà mình sát đường họ đến Có cho thì có là bao Con phải răn dạy nó đi Nếu không thì con đem bán Mình tạm gọi là no ấm Ai biết cơ trời vần xoay Lòng tốt gửi vào thiên hạ Biết đâu nuôi bố sau này… (Dặn con, Trần Nhuận Minh) Câu 2 (5 điểm): Có ý kiến cho rằng: Sông Hương là bản tình ca ca ngợi về thiên nhiên và văn hóa xứ Huế. Qua phân tích tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường), hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. |
THẦY KHƯƠNG TRÊN FACEBOOK
|