VỢ CHỒNG A PHỦ
Không có phản hồi
VỢ CHỒNG A PHỦ (Trích)
Tô Hoài sinh năm 1920, tên khai sinh là Nguyễn Sen, quê nội ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội); quê ngoại ở làng Nghĩa Đo, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Tây (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội). Xuất thân trong một gia đình thợ thủ công, Tô Hoài chỉ được học hết bậc Tiểu học; trước khi đến với văn chương, ông phải làm nhiều nghề để kiếm sống (bán hàng, làm kế toán hiệu buôn…). Tô Hoài là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam, là nhà văn có biệt tài nắm bắt rất nahnh nhạy những nét riêng trong phong tục, tập quán của những miền đất mà ông đã đi qua. Năm 1952, Tô Hoài đã cùng với bộ đội tiến quân vào giải phóng Tây Bắc. Đây là cơ hội để ông sống và tìm hiểu đất nước và con người vùng Tây Bắc. Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn trong tập Truyện Tây Bắc – kết quả của chuyến đi Tây Bắc này. Truyện Tây Bắc đã được tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam công nhận của truyện ngắn này là ở việc diễn tả nỗi thống khổ của người dân miền núi, đặc biệt là người phụ nữ Mông dưới chế độ thống lí, phìa tạo.
Là một truyện ngắn, Vợ chồng A Phủ có những nét đặc sắc trong việc xây dựng nhân vật. Việc phân tích tác phẩm cần bám vào các nhân vật. Đây là câu chuyện xây dựng dựa vào nguyên mẫu có thực. Tô Hoài kể lại: “Truyện Vợ chồng A Phủ tôi viết vào quãng những năm 1952, 1953… thời kỳ ấy, tôi cùng bộ đội và nhân dân bước vào chiến dịch Tây Bắc, giải phóng ba tỉnh Sơn La, Lai Châu và Hoàng Liên Sơn. Bước đường hình thành câu chuyện cùng với nhân vật, tư tưởng nhân vật cứ hình thành dần, đến khi chiến dịch kết thúc thắng lợi thì tôi cũng đã nghĩ xong và viết luôn. Có nghĩa là câu chuyện Vợ chồng A Phủ tôi đã xây dựng bằng mắt thấy tai nghe và cảm nghĩ về những con người và sự việc ấy trong cuộc chiến đấu giải phóng quê hương của các dân tộc thiểu số anh em ở biên giớ Tây Bắc đất nước”.
Thống lý Pá Tra là mẫu nhân vật điển hình cho bọn chúa đất ở vùng cao. Chúng có những nét đặc trưng riêng biệt thuộc về dân tộc tính (ngoại hình, lối sống…) nhưng về bản chất chúng không khác với bọn cường hào gian ác ở khắp nơi. Chúng giàu có nhưng keo kiệt, độc ác, trọng của khinh người, tàn bạo. Pá Tra làm giàu bằng những cách phổ biến của bọn địa chủ, cường hào: cho vay nặng lãi và bóc lột sức lao động của dân nghèo. Cha mẹ Mị vay tiền của Pá Tra mỗi năm phải nộp lãi một nương ngô, lao động suốt đời không đủ trả nợ, đành chấp nhận gán con gái để trả nợ theo yêu cầu của Pá Tra. Vẫn cách thức ấy, Pá Tra biến A Phủ thành nô lệ cho hắn; cho A Phủ phải “vay tiền” của y để nộp vạ cho làng. Những người vợ trong nhà Pá Tra thực chất là những nô lệ: “con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”. Thân phận con người còn cơ cực hơn con vật. Đó là lời tố cáo đanh thép tội ác của bọn chúa đất phong kiến trên vùng cao Tây Bắc. Tuy giàu có, ăn chơi hoang phí nhưng Pá Tra và con trai A Sử keo kiệt và khinh rẻ con người. Tính mạng và nhân phẩm con người bị chúng chà đạp dã mạn, không thương xót. Mị bị A Sử trói trong đêm mùa xuân. Trong nhà Pá Tra đã từng có người phụ nữ là vợ bị trói bỏ mặc ba ngày và chết. Mị cũng đã có thể bị mặc cho đến chết nếu như A Sử không bị đánh và cần có Mị đi hái thuốc. A Phủ bị chúng bắt về hành hạ, đánh đập và biến thành đứa ở, rồi cũng vì mất một con bò trong hàng trăm con bò mà A Phủ bị trói bỏ mặc và nếu không có Mị táo bạo cắt dây trói giải thoát thì đã chết.
A Sử độc ác, không có tình người. Mị là vợ hắn nhưng “Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết”. Và Tết này, Mị muốn đi chơi thì y trói Mị vào cột: dùng dây lương trói hai tay, dùng cả một thúng sợi đay trói đứng Mị vào cột nhà, lại quấn cả tóc Mị lên cột. Mị không thể cúi hay nghiêng đầu được! Thật là sự cực tả cái lối trói người của A Sử, một kẻ lạnh lùng coi tính mạng và phẩm giá của con người như cỏ rác. “Đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi”. Nhân vật Pá Tra có chân dung rõ hơn. Cái cách kết hợp hút thuốc phiện và đánh đòn thù A Phủ là một cách hành hạ con người thật độc đáo. Nếu coi tiệc hút thuốc phiện do Pá Tra tổ chức là một lối hưởng lạc phổ biến của bọn cường hào vùng núi thời ấy thì việc hắn cho người đánh A Phủ cũng là một kiểu “nhấm nháp” lạc thú. “Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh”, “Khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn qua các lỗ của sổ. Rồi Pá Tra lại ngóc cổ lên, vuốt tóc, gọi A Phủ,… Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Với “khát vọng” trả thù những ai dám xúc phạm uy danh của chúng, những ai xâm phạm lợi ích, uy tín của chúng, bọn cường hào không mảy may động lòng trước nỗi đau khổ hay thậm chí là cái chết của người dân. Tô Hoài đã dụng công tả “phiên tòa” tên Pá Tra thiết lập để xử phạt A Phủ. Hắn tuyên bố: “A Phủ, mày đánh con quan làng, đáng nhẽ làng xử mày tội chết, nhưng làng tha cho mày được sống mà nộp vạ. Cả tiền phạt, tiền thuốc, tiền lợn, mày phải chịu một trăm bạc trắng. Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở nợ. Bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. A Phủ “sờ lên đồng bạc trên tráp”, nhặt đồng bạc lên rồi lại đặt ngay xuống tráp và Pá Tra trút cả bạc vào trong tráp! Các “quan làng” tiệc tùng trên đau khổ của A Phủ. Tập trung đặc tả cảnh quan làng bắt vạ A Phủ là cách tác giả dồn nén tình huống đến độ căng thẳng, chuẩn bị cho sự bứt phá bột phát của cả hai nhân vật – nạn nhân là Mị và A Phủ. Cách Pá Tra trói A Phủ cũng là một đoạn phản ánh rõ nét tính cách tàn nhẫn và khinh bạc của hắn. Hắn buộc A Phủ phải tự đi tìm cọc, kiếm dây mây, tự tay A Phủ chôn cọc gỗ sẵn sàng để hắn trói. Cách trói của Pá Tra cũng là cách của A Sử, chỉ để lại cổ và đầu là hơi lúc lắc được. Khi phát hiện A Phủ có ý đồ tự cởi trói, hắn thêm một thòng lọng vào cổ, để A Phủ không cúi, không lắc được nữa. Trói người là một cách giam cầm, tù đày độc đáo của bọn cường hào miền núi. Dưới ách thống trị của bọn cường hào như thống lí Pá Tra, số phận của người dân thật vô cùng đau khổ, nhưng cũng chính chúng đã đẩy người dân bị áp bức đến chỗ vùng đậy.
Xuất hiện lần đàu trước mắt bạn đọc là lúc Mị lấy A Sử làm chồng, mặc dù cô không hề yêu hắn và hắn cũng chẳng có tình yêu với cô: “Không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Đó là nỗi khổ tâm lớn nhất của người con gái đang bước vào đời với bao mơ ước, hi vọng như Mị. Cô từng nói với bố đừng bán cô cho nhà giàu, rằng cô sẵn sàng làm nương ngô để trả nợ. Khi bị A Sử lừa bắt cóc đưa về, Mị có ý định tự tử bằng lá ngón rồi nghĩ đến món nợ truyền kiếp của gia đình mình, cô lại dằn lòng. Giữa Mị và A Sử không thấy nói đến tình cảm vợ chồng, với tình yêu hay tình nghĩa. Thực chất Mị chỉ là con ở, là tôi đòi. Lao động nặng nhọc, liên miên trong nhà Pá Tra đã tạo nên tâm lý an phận, cam chịu thân phận nô lệ của Mị. “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phỉa đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Tưởng chừng như mọi ý chí phản kháng đã tê liệt Ở trong nhà Pá Tra, Mị chỉ là một thân phận nữ tù nhân. Cái buồn cô ở tăm tối là biểu trưng cho không gian tù hãm, bế tắc của một mảnh đời bị giam hãm trong tù ngục: “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó của. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông vằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”. Một cái lỗ vuông nhỏ nhìn ra không gian núi rừng bao la nói lên thân phận tù hãm này. Thân phận Mị là thân phận của người bị kết án tù chung thân. Tâm trạng một cô gái quan lớn lên trong không gian bao la, tự do của núi rừng nay bị giam cầm trong căn buồn nhỏ hẹp như chiếc xà lim. Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Tô Hoài có nét đặc sắc riêng. Có hai phương thức mà ông sử dụng nhất quán trong toàn câu chuyện: (1) Nhìn nhân vật bằng cái nhìn của người bên ngoài để cho cái nhìn đó có tính khách quan; (2) Nhìn nhân vật từ bên trong nhân vật đó (tác giả hóa thân vào nhân vật). Ngay từ trong phần đầu truyện, ông đã cho thấy thế mạnh của lối miêu tả nhân vật này: + Câu chuyện về thân thế, cuộc đời Mị được dân làng kể lại: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa cạnh tàu ngựa…”. Cách dẫn chuyện thông qua lời nét đặc biệt của phong tục tập quán, lối sống, lối cảm nghĩ, lối nói của người dân miền núi. “Cô Mị về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Từ ngày nào cô cũng không nhớ, cũng không ai nhớ. Nhưng người nghèo ở Hồng Ngài thì vẫn còn kể lại câu chuyện Mị về làm người nhà quan thống lí”. Thì ra câu chuyện về cuộc đời thống khổ của Mị là câu chuyện lan truyền rộng rãi cả vùng, là mối quan tâm của cả làng. Đây là lối dẫn chuyện mang dáng dấp của lối kể chuyện cổ tích, hứa hẹn một cốt truyện hấp dẫn. + Mị được miêu tả bằng cái nhìn của chính nhân vật từ bên trong nhìn ra. Tâm lý nhân vật được tác giả quan tâm nhiều hơn là hành động. Đây là cô gái dân tộc Mông cảm và nghĩ nhiều hơn là nói nên nhà văn hạn chế tả chân dung ngoại hình, hâu như không sử dụng phạm trù ngôn ngữ nhân vật mà để cho nhân vật tự thể hiện mình bằng các giác quan (cảm nhận) và tâm trạng. với cách này, Tô Hoài đã diễn tả được những nét tâm trạng, xúc ảm khó diễn tả, nhất là xúc cảm của cô gái đang yêu: “Đến tết năm ấy, Tết thì vui chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái thì bố mẹ không ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách. Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị. Một đêm khuya, Mị nghe tiếng gõ vách. Tiếng gõ vách hò hẹn của người yêu. Mị hồi hộp lặng lẽ quơ tay lên thì gặp hai ngón tay lách qua khe gỗ, sờ một ngón thấy có đeo nhẫn. Người yêu của Mị thường đeo nhẫn ngón tay ấy. Mị bèn nhấc tấm vách gỗ. Một bàn tay dắt Mị bước ra”. Mị đã có người yêu song đã bị A Sử đánh lừa. Tình huống bắt cóc Mị liên quan đến phong tục cướp vợ của các dân tộc trên vùng cao tạo nên hứng thú cho người đọc. Phần thứ hai của truyện dành để diễn tả sự trỗi dậy của khát vọng sống âm ỉ từ đáy sâu tiềm thức của Mị. Mặc dù thân phận nô lệ, tù đày, mặc dù nỗi buồn khổ, tủi nhục đã biến Mị thành một cái bóng lặng lẽ, âm thầm, trong con người Mị, vẫn âm ỉ một khát vọng sống, sống có tình yêu và hạnh phúc. Bao nhiêu năm tháng trôi qua, bỗng một ngày hội mùa xuân, khát vọng ấy bùng dậy. Diễn tả diễn biến tâm trạng của tác giả. Bối cảnh nền cho tâm trạng mới của Mị là không khí náo nức của ngày hội mùa xuân. “Trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi tren mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ […]. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”. Màu sắc tươi sáng và âm thanh rộn rã tạo cho không gian núi rừng ngày Tết một sức cuốn hút náo nức. Mùa xuân ở bất cứ dân tộc nào cũng tượng trưng cho tình yêu, tuổi trẻ, sức sống mạnh mẽ. Không quan tâm nhiều đến việc miêu tả ngoại cảnh. Tô Hoài dành tâm huyết chăm sóc cho thế giới nội tâm nhân vật. Nhân vật được thể hiện từ bên trong chứ không qua lời người dẫn chuyện. người kể chuyện đã ẩn đi để nhân vật tự trình hiện: “Mị nghe tiếng sao vọng lại, thiết tha bổi hổi. Mị ngòi nhẩm thầm bài hát của người mình thổi: Mày có con trai con gái rồi Mày đi làm nương Ta không có con trai con gái Ta đi tìm người yêu Tưởng như Mị đã khô héo từ lâu vì buồn khổ. Nhưng không, tiếng sao gọi người yêu đã đánh thức con tim của mọt thiếu phụ làm vợ mà không có tình yêu, đưa chị trở về với những ngày hội xuân, về tình yêu một thuở. Từ đây, mọi tâm trạng và hành động của Mị đều phục tùng logic của hồi tưởng. Cô như đắm mình trong miền hồi tưởng, hồi ức về ngày hội mùa xuân, về người yêu. Tiếng sao có vai trò lý giải các diễn biến tâm trạng của Mị. “Tai Mị văng vẳng tiếng sao gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Ngoài kia, sự sống chẳng bao giờ chán nản, cuộc sống vẫn diễn ra theo nhịp điệu của nó khiến Mị đã quên đi mình đang bị trói. Uống rươu không phải là điều xa lạ với Mị. Các cô gái Mông về mùa xuân vẫn uống rượu. Mị uống ừng ực từng bát và chất men say làm cho cô có tâm trạng lâng lâng hứng khởi. Nhưng quan trọng hơn là chất men say của kỉ niệm đẹp: “Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi […]. Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lửng bay ngoài đường”. Tiếng sao gọi người yêu ám ảnh, thôi thúc, dẫn đến hành động, ban đầu là một hành động nho nhỏ: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Đây là chi tiết có ý nghĩa. Mị đã có ý định thay đổi một cái gì đó, dù là chỉ làm cho căn nhà sáng lên. Kỉ niệm cũ đã thổi hồng bếp than vùi dưới tro. Lúc này, Mị không có ý nghĩ nào khác là thoát ra với không gian hội hè tự do ngoài kia. Chỉ có tâm trạng và hành động: “Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Câu văn ngắn, nhịp điệu gấp rút, khẩn trương, các ý nghĩ thoáng qua và hành động tiếp nối nhau nhanh gấp. Niềm khao khát sống trong tình yêu hạnh phúc trỗi dậy cũng nồng nan men rượu. Nhưng giả thử không có men rượu thì tiếng sáo gọi bạn tình yêu ấy cũng đủ làm cô thổn thức. A Sử đã trói chặt cô lại nhưng cô đâu có để ý đến việc bị trói, cho dù là trói một cách độc ác. “Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sao đưa Mị đi theo những cuộc chơi”. Cả một thời con gái sống dậy mạnh mẽ trong cô. Quên thực tại đang bị trói một cách ê chề, trong đầu Mị là những âm thanh, những hình ảnh, những cảm xúc năm nào : “Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này là lúc trai đang đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi. Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sao. Tiếng chó sủa xa xa. Mị lúc mê, lúc tỉnh”. Toàn bộ đoạn văn này miêu tả nhân vật từ điểm nhìn của chính nhân vật. Tại sao bao năm trước đó, vẫn là cảnh mùa xuân như thế nhưng tâm hồn Mị vẫn nín lặng và chính là mùa xuân này Mị mới sống lại với khát vọng sống thật mạnh mẽ? Thật khó mà trả lời, song chỉ có một điều chắc chắn: sự dồn nén qua năm tháng đã đến độ bùng nổ, một khi khát vọng ấy trỗi dậy, nó sẽ không chết đi. Từ thời điểm này, Mị đã khác. Khi tỉnh dậy, Mị có cảm giác sợ – sợ cái chết. “Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: đời trước, ở nhà thống lý Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Nhớ thế, Mị sợ quá, Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay chết”. Sợ chết vì cô vẫn muốn sống, vẫn hy vọng mơ hồ về cuộc sống, về tình yêu, hạnh phúc. Cô khao khát sống. Mặc dù bọn cường hào miền núi Pá Tra đã đàn áp ý chí tự do của con người, đã biến con người trong tay chúng thành nô lệ, thành tù nhân nhưng phần lương thiện tốt đẹp của con người vẫn sống. Số phận bi thảm của cô không làm lu mờ chủ nghĩa nhân đạo lạc quan của tác giả. Một mặt, nhà văn tố cáo chế độ phong kiến ở miền núi, mặt khác vẫn giữ niềm tin vào sức sống mãnh liệt của nạ nhân của chế độ này. Mị cắt dây trói cho A Phủ rồi cùng A Phủ chạy trốn khoải nhà Pá Tra là sự phát triển logic của diễn biến tâm trạng trong Mị. Không phải ngẫu nhiên thân phận thống khổ của A Phủ được diễn tả từ điểm nhìn của Mị. Nếu như ý muốn đi chơi ngày xuâ của Mị là kết quả logic của diễn biến tâm trạng trong cô thì quyết định cắt dây trói cứu A Phủ là do sự động lòng trắc ẩn, sự cảm thông. Lòng thương dân và thương người, sự căm ghét bọn thống trị tàn ác đã giúp Mị vùng lên. Lúc đàu, hành động của Mị khiến ta có cảm tưởng thân phận nô lệ, tù hãm đã làm cho Mị dửng dưng, lạnh nhạt với xung quanh. Đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa hơ tay, hơ lưng vì trời rất lạnh. A Phủ vẫn bị trói, mở mắt trừng trừng “Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Nhưng lòng thương người của cô cũng giống ngọn lửa kia, đến một lúc rồi bùng cháy lên. Ấy là lúc “Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Cô liên tưởng đến thân phận mình đã có lúc suýt chết trói, đến thân phận của một người đàn bà đã từng bị chết trói như thế và lo cho A Phủ: “Cơ chừng này chỉ đem mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Mị cũng nghĩ đến lúc A Phủ trốn được, cô phải trói thay vào đấy, song “trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ”. Mị không sợ vì tình thương và sự căm phẫn đã át hết nỗi sợ chết. Cô đã cắt dây trói gỡ cho A Phủ. Hai tù nhân, nô lệ của nhà Pá Tra đã chạy trốn tìm tự do. Các sự việc diễn ra liên tiếp, ngoài dự kiến của Mị: từ ý nghĩ “phảng phất” về cái chết đang lơ lửng trên đầu “người kia” (A Phủ), ý nghĩ về việc mình sẽ bị trói thay vào cọc vì A Phủ trốn được đến chỗ cô rón rén tiến đến cắt dây trói, sua đó cùng A Phủ bỏ chạy. Nhưng đó cũng là phép biện chứng của tâm hồn: một hành động có tính chất bùng nổ, quyết liệt như thế, phải là kết quả của một quá trình phát triển tiệm tiến của tâm trạng, cảm xúc, tư tưởng. Tô Hoài nói: “Vẻ đẹp của một tâm hồn con người, bao giờ cũng vậy, một tấm lòng, một tinh thần vị tha, một hành động không phải chỉ vì mình, đấy mới trở thành những câu chuyện đời đời nhớ mãi”. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ có dáng dấp của một thiên phân tích tâm lý sắc sảo, tinh tế. Những dồn nén của thân phận bị chà đạp, đã đẩy đến những hành động quyết liệt trong giây lát, quyết định hướng đi của cuộc đời và chính nhân vật cũng không dự tính trước.
Tuy A Phủ không phải là nhân vật chính của câu chuyện nhưng hình tượng A Phủ cũng góp phần làm hoàn chỉnh hơn nhận thức về nỗi thống khổ của con người ở vùng núi Tây Bắc trước Cách mạng.
Điều đáng chú ý là A Phủ sớm có lòng quả cảm, anh biết căm ghét sự hống hách của bọn có quyền thế và dám táo bạo chống lại chúng. Cảnh A Sử bị A Phủ trừng trị thật sinh động: “Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát lăng vào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên, A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. Chi tiết nắm vòng cổ A Sử rất có ý nghĩa vì A Sử là con nhà quan – tầng lớp thống trị, có “nạm vòng bạc ở cổ rủ xuống những tua chỉ xanh đỏ mà chỉ riêng con quan trong làng mới được đeo”. A Phủ có những phẩm chất tốt đẹp của người lao động chân chính, có tiềm năng cách mạng. Thực ra, việc anh đánh A Sử chỉ là hành động bột phát trong giây phút, nếu phải cân nhắc kĩ thì chưa chắc A Phủ dám đánh con quan. Nhưng trong giây phút, lương tâm của chàng đã kêu gọi hành động vì chính nghĩa ấy. Nhưng sự chống đối tự phát, đơn độc của pa chỉ là nguồn gốc của nỗi thống khổ và bất hạnh của anh. Không phải A Phủ cam chịu mà là có cả một bộ máy đàn áp, trả thù sự chống đối của anh. Việc Pá Tra điên cuồng trả thù A Phủ một mặt tố cáo sự độc ác, dã man của bọn cường hào vùng núi, tốt cáo thân phận thống khổ của con người lương thiện dưới chế độ thống lí, phìa tạo, mặt kahcs cho thấy một bài học: Nếu đấu tranh đơn đọc, không có tổ chức thì mọi sự chống đối đơn độc chỉ dẫn đến thất bại. Đó là bài học cách mạng vỡ lòng cho những ai muốn thủ tiêu chế độ phong kiến thực dân, giải phóng cho cuộc đời mình. Vợ chồng A Phủ là một truyên ngắn thành công của Tô Hoài. Ý nghĩa nhân đạo và ý nghĩa cách mạng đã được nhà văn chuyển tải tới người đọc bằng một nghệ thuật xây dựng nhân vật tinh tế, đặc sắc. Chúng ta có dịp hiểu hiện thực đen tối của xã hội phong kiến miền núi và do đó hiểu được ý nghĩa vĩ đại mà cách mạng đã đem đến cho người dân vùng núi Tây Bắc này.
Phần I. Đọc hiểu (3 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: Em là ai ? Cô gái hay nàng tiên Thịt da em hay là sắt là đồng ? Cho tôi hôn bàn chán em lạnh ngắt Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung Ôi trái tim em trái tim vĩ đại Còn một giọt máu tươi còn đập mãi Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời Cho quê hương em. Cho Tổ quốc, loài người! (Người con gái Việt Nam, Tố Hữu, Gió lộng, NXB Văn học, 1961) Câu 1: Đoạn trích trên được sáng tác vào giai đoạn văn học nào? Câu 2: Hình tượng nhân vật trung tâm của đoạn thơ là ai? Hình tượng nhân vật ấy được tác giả thế hiện với thái độ gì? Câu 3: Anh (chị) hãy chỉ ra và phân tích giá trị của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng ở đoạn thơ đầu. Câu 4: Trong khoảng từ 5 – 7 dòng, trình bày suy nghĩ của anh chị về vấn đề lẽ sống của tuối trẻ được đặt ra trong khổ thơ cuối cùng của đoạn trích . Phần II. Làm văn (7 điểm) Câu 1 (2 điểm): Bằng đoạn văn khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của anh (chị) về bài học mà người cha muốn nói với con trong bài thơ sau: Chẳng ai muốn làm hành khất Tội trời đày ở nhân gian Con không được cười giễu họ Dù họ hôi hám úa tàn Nhà mình sát đường họ đến Có cho thì có là bao Con phải răn dạy nó đi Nếu không thì con đem bán Mình tạm gọi là no ấm Ai biết cơ trời vần xoay Lòng tốt gửi vào thiên hạ Biết đâu nuôi bố sau này… (Dặn con, Trần Nhuận Minh) Câu 2 (5 điểm): Có ý kiến cho rằng: Sông Hương là bản tình ca ca ngợi về thiên nhiên và văn hóa xứ Huế. Qua phân tích tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường), hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. |
THẦY KHƯƠNG TRÊN FACEBOOK ![]() |