CHIỀU TỐI
Không có phản hồi
CHIỀU TỐI
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ Cô vân mạn mạn độ thiên không Câu thơ thứ nhất miêu tả một cánh chim mỏi bay về rừng, tìm một ngọn cây ngủ qua dêm. Đay là một hình ảnh của không gian nhưng lại có giá trị gợi tả thời gian- trong thơ, cánh chim về tổ đã trở thyanhf một hình ảnh ước lệ cho hoàng hôn, một khoảng thời gian thường gợi cảm giác buồn bã bởi sự lụi tàn cuối ngày; cũng là khoảng thời gian của ngưng nghỉ, đoàn tụ, dễ làm chạnh lòng người tha hương, lữ thứ. Đó là cánh chim gợi buổi chiều với bao nhiêu chông chênh bất ổn của Nguyễn Du:” Chim hôm thoi thóp về rừng“, hay cánh chim làm xao xác cả hoàng hôn trong câu thơ Huy Cận:” Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa”… Hai câu thơ đầu của Chiều tối cũng gợi liên tưởng đén một tứ thơ quan thuộc của Lí Bạch: Chúng điểu cao phi tận Cô vân độc khứ nhàn Nhưng có thể thấy trong câu thơ xưa, những cánh chim bay cao tít tắp và mất hút vào khoảng không bao la vô tận; đám mây cô đơn nhàn nhã trôi đi – còn lại chỉ là bầu trời hoang vắng mênh mông, gợi cảm giác siêu thoát, phiêu bạt xa xăm rát thường gặp trong các tác phẩm của vị thi tiên lãng mạn. Còn cánh chim trong Chiều tối của Hồ Chí Minh lại gợi ra cái tuàn hoàn miên viễn của thời gian, nhịp điệu chảy trôi bình dị của cuộc sống, và do đó, Chiều tối tuy buồn nhưng vẫn tạo ra cảm giác ấm áp, gần gũi của cuộc sống đời thường. Trong câu thơ đầu tác giả không chỉ miêu tả hình ảnh cánh chim chiều mà trái tim yêu thương mênh mông của Bác như còn cảm nhận được cả sắc thái mệt mỏi của nó với chứ ” quyện” ở đầu câu. Câu thơ có cả sự liên tưởng đồng cảm và sự đối sánh xót xa: cũng như cánh chim trên trời mệt mỏi sau một ngày kiếm ăn, người tù 52 tuổi đang mệt mỏi sau một ngày chuyển lao khó nhọc – Trong bài thơ Mới đến nhà lao Thiên Bảo, Bác có viết về hành trình nhọc nhằn ấy:” Năm mươi ba dặm một ngày trời- áo mũ ướt đẫm, dép tả tơi…” Nhật hành ngũ thập tam công lí – Thấp thập ý quan phá tận hài”. Song nếu cánh chim trên bầu trời tự do đang mải miết về tổ, tìm sự nghỉ ngơi yên ổn cuối ngày thì con người vẫn đang bị áp giải với xiềng xích, trên đường chuyển lao, chưa biết lúc nào được dừng chân, và chưa biết những đày đọa nào đang chờ ở phía trước; sự đối sánh càng xót xa khi cuổi chặng đường bay của cánh chim chiều là tổ ấm – sự ấm áp bình yên hiện rõ trong sắc thái ý nghĩa của từ “qui”- về giữa dòng thơ, còn ở cuối chặng đường của người tù là một nhà lao, nơi tiềm ẩn những đọa đầy đau khổ! Nỗi khao khát về một chốn dừng chan ấm áp bên người thân nếu cóa thấp thoáng hiện lên trong hình tượng thơ thì cũng là điều dễ hiểu với một người đang ở giữa kẻ thù, nơi đt khách, mệt mỏi cô đơn trong cảnh chiều vắng lặng, buồn bã miền sơn cước. Trong câu thơ sau Cô vân mạn mạn độ thiên không, cảnh chiều muộn đã rõ hơn bởi hình ảnh một đám mây lẻ loi, chầm chậm trôi ngang qua bầu trời. Hai hình ảnh tương phản ở đầu và cuối câu thơ: cô vân – thiên không khiến đam mây nhỏ nhoi, đơn độc hơn giũa bầu trời mênh mông, rợn ngợp. Từ láy mạn mạn cho thấy đám mây bồng bềnh, trôi rất chậm giữa trời thu, từ đó, người đọc có thể hình dung ra cả một khoảng trời trong trẻo, mênh mang, tĩnh lặng cùng một chút gió thu nhè nhẹ, hắt hiu u buồn. Cũng như cánh chim chiều mỏi mệt trong câu trên, hình ảnh đám mây cô đơn không đơn thuần chỉ là một thi liệu cổ điển, thông qua bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc trong cổ thi, có thể đám mây bé nhỏ ấy là sự phản chiếu cảnh ngộ và tâm trạng của người tù đang dơn độc nơi đất khách quê người. Nỗi buồn bã cô đơn của người và cảnh đã thấm vào nhau trong một sự liên tưởng và hòa hợp đến kì lạ. Cũng vì sự hòa hợp ấy nên bức tranh thiên nhiên trong hai câu thơ đầu thấm thía nỗi u buồn. Người tù nhận ra cảnh ngộ và nỗi niềm của mình trong cảnh vật: sự mệt mỏi của cánh chim cuối ngày; cảm giác bình yên ngưng nghỉ khi chim về tổ; sự trôi dạt phiêu du của những áng mây… tất cả đều có mối giao cảm hoặc tương đồng hoặc tương phản với con người. Như vậy, với những thi liệu cổ điển quen thuóc, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình và bút pháp chỉ gợi mà ít tả, bằng hai nét vã đơn sơ, tác giả Hồ Chí Minh đã ghi lấy hồn tạo vật, dựng lên cả một không gian mênh mông, yên ả, u hoài, một bức tranh chiều muộn miền sơn cước. Qua bức tranh thiên nhiên ấy, người đọc không chỉ chia sẻ nỗi mệt mỏi, buồn bã cô đơn của người tù trên đường chuyển lao mà còn nhận ra vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh, có thể hình dung ra ánh mắt của người tù đang trìu mến dõi theo một cánh chim, một áng mây. Từ ánh mắt ấy mà thấy được tình yêu tha thiết với thiên nhiên cùng một tư chất nghệ sĩ tinh tế để có thể cảm với cái đẹp ngay trong cảnh tù đày. Đó là chất tình đồng thời cũng là bản lĩnh con người biết vượt lên trên sự khắc nghiệt của hoàn cảnh, là chất thép Hồ Chí Minh.
Nổi bật trong bức tranh là hình ảnh một thiếu nữ xóm núi đang xay ngô, chuẩn bị bữa ăn chiều, đây là một thi liệu tô đạm tính dân chủ, đem lại sự vận dộng mới mẻ cho hình tượng thơ: Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc Bao túc mao hoàn, lô dĩ hồng. Con người trong khổ thơ thường xuất hiện như một sự điểm xuyết cho bức tranh thiên nhiên, họ thường bé nhỏ, cô đơn ( Lom khom dưới núi tiều vài chú – Bà Huyện Thanh Quan), thường tĩnh lặng, thụ động và luôn chịu sự chi phối của ngoại cảnh (Nhật mộ hương quan hà xứ thị – Yên ba giang thượng sử nhân sầu– Thôi Hiệu)…Thiếu nữ xóm núi trong câu thơ của Hồ Chí Minh được miêu tả ở vị trí trung, cận cảnh của bức tranh chiều tới nơi núi rừng; lại trong hoàn cảnh lao động. Đây chính là nét khác biệt với cổ thi – hình ảnh và công việc của cô gái khiến bức tranh chiều tối bớt đi nhiều cảm giác lạnh lẽo, u ám, vắng buồn, cô quạnh. Trân trọng nâng niu một vẻ đẹp ấm áp đơn sơ trong cuộc sống đời thường của người dân xóm núi, tác giả Hồ Chí Minh đã thể hiện tấm lòng của một nhà nhân đạo chủ nghĩa vĩ đại, người có thể quên đi cảnh ngộ của chính bản thân mình để vui với cuộc đời, để yêu thương cuộc đời. Tình yêu thương bao la Bác còn hiện ra trong một nét nghĩa khác của hai câu cuối. Cấu trúc lặp vòng tròn từ cuối câu 3 tới đầu câu 4:” ma bao túc- bao túc ma” đã gợi tả tinh tế vòng quay triền miên, nặng nề, chậm chạp của chiếc cối xay ngô, câu thơ có hơi ấm của cuộc sống con người nhưng vẫn thấm thía nỗi xót xa thương cảm với công việc cực nhọc, vất vả của con người. Vế cuối của câu 4 cũng là hình ảnh cuối cùng của bài thơ đã thể hiện rõ nét sắc thái mới mẻ, hiện đại trong tinh thần và bút pháp nghệ thuật Hồ Chí Minh: lô dĩ hồng – nghĩa là lò đã hồng. Sắc hồng trong lò than cúa cô gái xóm núi đã thắp sáng cả bài thơ, xua đi tất cả những lạnh lẽo, tối tăm, đem alij ánh sáng và sự ấm áp cho đêm miền sơn cước. Vai trò chủ thể của con người đã được xác lập khi họ không chịu tác động của ngoại cảnh mà thậm chí còn chi phối trở lại ngoại cảnh. Hình tượng thơ vừa nối tiếp hai câu đầu, vừa vận động mạnh mẽ, tích cực hướng về sự sống, ánh sáng tương lai. III.KẾT LUẬN Bài thơ Chiều tối đã thể hiện sâu đậm phong cách thơ ca nghệ thuật Hồ Chí Minh với cả màu sắc cổ điển và chất hiện đại. Nếu màu sắc cổ điển thấm đượm trong thi liệu, thi tứ, thể loại, hình tượng ngôn từ… thì chất hiện đại bao hàm từ cảm hứng đến bút pháp nghệ thuật. Qua đó, nhà thơ đã tái hiện tinh tế, gợi cảm bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người trong một chiều muộn miền sơn cước, làm hiện ra vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh với chất tình, chất thép cùng tư chất nghệ sĩ bay bổng. LUYỆN TẬP Đề 1: Quan điểm và sự nghiệp sáng tác văn học của Hồ Chí Minh Dàn bài
Là lập trường, cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về vấn đề cầm bút sáng tác. Trong quá trình sáng tác bác đã để lại ba quan điểm chính:
Người nghệ sĩ cũng là người chiến sĩ trên mặt trận văn chương. Trong “Cảm tưởng thiên gia thi” Bác phê phán thơ xưa: “Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹp. Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông.” Bác khẳng định với thơ ca hiện đại: “Nay ở trong thơ nên có thép. Nhà thơ cũng phải biết xung phong.” Cần khẳng định, thép ở đây là tinh thần chiến đấu của người chiến sĩ, là lòng yêu nước mãnh liệt của mỗi con người. Thể hiện ở thư gửi các họa sĩ nhân triển lãm tranh toàn quốc (1951), có đoạn Bác viết: “văn hóa nghệ thuật là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Đặt quan điểm này vào dòng chảy của nền văn học , nó là sự nối tiếp quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm. Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.” Sau này Sóng Hồng (Trường Chinh) đã nối tiếp quan điểm này: “Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ. Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền.”
Nhiều người cho rằng Hồ Chí Minh viết không đều tay. Có những tác phẩm ngang quốc tế nhưng cũng có những tác phẩm giản dị như lời nói thường ngày. Bác khẳng định: đối với người cầm bút viết văn chân chính, trước khi cầm bút viết phải trả lời được những câu hỏi sau:
Nếu như viết cho đồng bào ta nghe Bác phải viết chắc chắn như hai cộng hai bằng bốn (Tâm sự trong cuốn vừa đi đường vừa kể). Để kêu gọi tinh thần đoàn kết của các dân tộc, Bác viết: “Hòn đá to, hòn đá nặng. Một người nhấc, nhấc không đặng. Biết đồng sức, biết đồng lòng. Việc gì khó cũng làm xong.”
Ban-zắc đã từng nói: “Nhà văn là thư ký trung thành của thời đại, tác phẩm của anh phải là tấm gương xê dịch trên quãng đường đời.” Nam Cao nói: “Chao ôi, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.” (Trăng sáng – 1943) Bác quan niệm rằng: cần phải viết cho hay, cho hào hùng, cho chân thực, viết về gương người tốt việc tốt, bảo vệ sự trong sáng cho Tiếng Việt, tính dân tộc trong văn chương.”
Tác phẩm tiêu biểu: Vi hành, vở kịch “ Con rồng tre”, “Những trò lố Varen và Phan Bội Châu”, “ Bản án chế độ thực dân Pháp” (1926). Khi viết ra những tác pẩm này Hồ Chí Minh đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin vì vậy mục đích chính trị bay xa và trúng đích.
Các bài báo của Hồ Chí Minh được in ở Nga được tập hợp lại trong tập “Nhật ký chìm tàu”.
Tâm Tâm xã => Việt Nam cách mạng đồng chí hội. Tác phẩm: “Đường cách mệnh” (Đường cách mạng)
135 bài thơ (kể cả hai bản bổ sung). Hai bài bổ sung : Mới ra tù tập leo núi, Ngục trung nhật ký -> in thành cuốn “Ngục trung nhật ký”.
Chùm thơ Việt Bắc: Đi thuyền trên sông Đáy, Cảnh khuya, Tin thắng trận, Nguyên tiêu…
Chúc tết và di chúc của Bác -> Với tất cả quan điểm sáng tác kể trên, Hồ Chí Minh xứng đáng là “một nhà văn của nhân loại” – Nói như Muydenstan. Đề 2: PHÂN TÍCH BÀI “MỘ” CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC BÀI LÀM Trong trường ca “Theo chân Bác” nhà thơ Tố Hữu có viết: “Lại thương nỗi đọa đày thân Bác. Mười bốn trăng tê tái gông cùm. Ôi chân yếu, mắt mờ, tóc bạc. Mà thơ bay cánh hạc ung dung.” Mười bốn tháng bị giam cầm trong nhà ngục Tưởng Giới Thạch, Bác Hồ đã sáng tác 135 bài thơ (kể cả hai bản bổ sung), được in thành tập với nhan đề “Ngục trung nhật ký”. Ai đã từng đọc tập thơ này hẳn sẽ bắt gặp một đề tài trở đi trở lại nhiều lần. Đó là đề tài chuyển lao. Có cảnh chuyển lao đi bộ, lại có cảnh chuyển lao đi thuyền: “Đáp thuyền thẳng xuống Ung Linh. Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình.” Có cảnh chuyển lao từ rất sớm (Tạo giải), lại có cảnh chuyển lao lúc “Chiều tối”. Trong tất cả những bài thơ viết về đề tài này, “Mộ” được xem là bài thơ hay hơn cả. Bài thơ này có sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại, giữa vẻ đẹp tâm hồn thi sĩ và người chiến sĩ tài ba. Đồng thời “Mộ” cũng làm toát lên chất thép cao cường của Hồ Chí Minh: “Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ Cô vân mạn mạn độ thiên không Thôn sơn thiếu nữ ma bao túc Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.” “Mộ” là bài thơ thứ 31 trong tập “Ngục trung nhật ký”. Bài thơ này được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt – một thể thơ quen thuộc của thơ ca phương Đông. Hai câu thơ đầu tiên hiện lên trước mắt chúng ta là bức tranh thiên nhiên được Bác cảm nhận và vẽ lên bằng tâm hồn của một người thi sĩ kiêm một người chiến sĩ tài ba. Hai câu thơ sau là bức tranh sinh hoạt nơi xóm núi được Bác cảm nhận bằng tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng. Đó là một bức tranh thiên nhiên hiện ra với bầu trời cao rộng “độ thiên không”, Bác điểm xuyết lên một chòm mây cô lẻ đang “quy lâm” để “tầm túc thụ”. Câu thơ đầu tiên Bác vẽ lên thời gian người bị áp giải. Thời gian được điểm xuyết bằng cách mượn hình ảnh cánh chim chiều – đây là một nghệ thuật rất cổ điển, các bậc tao nhân mặc khách xưa cũng thường mượn cánh chim chiều để điểm xuết thời gian. Hẳn ta không thể nào quên được “Chiều hôm nhớ nhà” của Bà Huyện Thanh Quan: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi Rặng liễu sương sa khách bước dồn.” Ta cũng không thể quên được những câu thơ hay trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du: “Chim khôn thoi thóp về rừng. Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành.” Hay trong ca dao cổ có viết: “Chin bay về núi tối rồi.” Đến với Huy Cận, một nhà thơ mới nhưng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ thơ cả cổ phương Đông đã viết trong bài thơ “Tràng giang”: “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.” Và ở đây ta bắt gặp cánh chim chiều trong bài thơ “Mộ” của Hồ Chí Minh. Như vậy, rõ ràng yếu tố cổ điển đã được bộc lộ ngay ở trong câu thơ đầu tiên. Nhưng trong thơ của Bác vẫn có sự kết hợp hài hòa của yếu tố hiện đại. Nếu như các nhà thơ thường chỉ nhìn vào vẻ bề ngoài của cánh chim thì Bác lại có cái nhìn khá, Bác nhìn thấu cả vào bên trong sự vật hiện tượng, đó là cái nhìn đầy nhân đạo, nhân văn. Cái nhìn ấy xuất phát từ trái tim yêu đời, thương người vô hạn, một trái tim: “Thương từ ngọn cỏ đến nhành hoa Chỉ biết quên mình cho hết thảy. Như dòng sông chảy nặng phù sa.” Trái tim ấy đã được nhà thơ Tố Hữu nâng lên thành hình tượng thơ đẹp: “Bác ơi tim Bác mênh mông thế. Ôm cả non sông trọn kiếp người.” Hơn nữa, những cánh chim trong thơ xưa thường bay về nơi vô tận, như Lý Bạch đã viết: “Chúng điểu cao phi tận Cô vân độckhứ nhàn.” Nghĩa là một bầy chim bay về nơi vô tận. Còn cánh chim trong thơ Bác lại có mục đích rõ ràng là “quy lâm” để “tầm túc thụ”. Phải chăng đó chính là khát vọng đoàn tụ khi Bác đang ở đất khách quê người. Lòng Bác luôn hướng về quê cha, đất tổ, hướng về phía trời Nam. Có khi nỗi nhớ nước thương dân làm cho Bác ốm nặng. Trong bài thơ “Ốm nặng” Bác có viết: “Ngoại cảm trời Hoa cơn nóng lạnh Nội thương nước Việt cảnh lầm than.” Nó thể hiện khát vọng đoàn tụ trong thơ Hồ Chí Minh, Bác yêu nước, thương dân đến mức không ngủ được ngồi đếm canh. Đếm canh bốn, canh năm khi Bác vừa chợp mắt thì đất nước hoàn toàn độclập và qua hình ảnh lá cờ đỏ năm cánh sao vàng tung bay trong giấc mộng: “Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh.” Nếu câu một Bác vẽ lên khoảng thời gian bị áp giải, đó là vào một buổi chiều buồn thì câu thơ thứ hai Bác lại vẽ lên không gian. Đó là một không gian cao rộng “độ thiên không”, được điểm xuyết bằng chòm mây trôi nhè nhẹ giữa miền sơn cước. Thơ hay khi tình và cảnh hòa quyện với nhau: “Tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”. Thơ hay ý tại ngôn ngoại, lời ít ý nhiều, một câu thơ có thể được hiểu theo nhiều dư văn khác nhau và câu thơ này đạt đến trình độ ấy. Câu thơ thể hiện tâm trạng buồn của thi sĩ, bối cảnh vẽ ra mang màu sắc trầm buồn. Nói như đại thi hào Nguyễn Du: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Bác đặt chữ “cô vân” ở đầu câu, “cô” tức là cô lẻ, cô độc. Điều đó đã thể hiện nỗi cô đơn của người tù nơi đất khách, quê người. M.Gocki đã từng nói: “Văn học là nhân học”. Văn học từ muôn đời xưa đến mãi về sau bao giờ cũng viết về con người. Dù chỉ là một cánh bèo dạt, một áng mây trôi hay một cánh chim đơn lẻ, sẽ là gì nếu như không phải là tâm hồn thi nhân. Hơn thế nữa, cảnh áp giải lại được diễn ra vào một buổi chiều ảm đạm với ánh nắng tàn phai, chim trời tắt bóng, những đóa hoa rực rỡ, ẩn mình trong đêm tối sẽ rất dễ tạo ra cảm giác bơ vơ cho lữ khách nơi xứ người khi bắt gặp cảnh chiều hôm chim về tổ. Bác biết đi đâu về đâu giữa cái mênh mông của đất trời sẩm lại, Bác biết đi đâu về đâu khi điểm đên là một nhà lao và xuất phát cũng là một nhà tù? Sự khó chịu trước cảnh chuyển lao, áp giải tù nhân mọi lúc, mọi nơi đã làm Bác phá cả lệ thơ, thể hiện nỗi bất bình: “Đã giải đi Nam Ninh, Lại giải về Vũ Minh Giải đi quanh quẹo mãi Kéo dài cả hành trình. Bất bình!” Câu thơ còn thể hiện được thể trạng của Bác. Nhà tù Tưởng Giới Thạch áp giải từ nhân từ rất sớm: “Gà gáy một lần đêm chửa tan” Có khi chỉ ăn lưng bát cháo tù nhưng phải đi bộ năm mươi ba cây số một ngày. Trong một bài thơ Bác viết: “Năm ba cây số một ngày Áo mũ dầm mưa rách hết giày.” Áp giải từ rất sớm, ăn lưng bát chào tù, giờ đã là chiều tối rồi, chắc hẳn người đã rất mệt mỏi. Sự mệt mỏi đó quyền vào hình ảnh thơ, đệp vào hai chữ “mạn mạn”. Theo tiếng Hán Việt thì “mạn mạn” nghĩa là “chầm chậm” với hai dấu nặng liền kề như những bước chân nặng nề, khó nhọc, mệt mỏi. Nhưng tiếc rằng, dịch giả Nam Trần khi dịch thành bài “chiều tối” đã dịch theo lối dịch thoát từ “Cô vân” thành “Chòm mây” đã vô tình đánh rơi chữ “cô”, từ “mạn mạn” thành “trôi nhẹ” đã không thể hiện hết được tâm trạng cô đơn và thể trạng mệt mỏi của Bác. Tuy nhiên bản dịch “Chiều tối” của Nam Trân ra đời đã gần bảy mươi năm nhưng vẫn chưa có dịch giả nào khắc phục được những hạn chết trên nên bản dịch này vẫn được coi là bản dịch hay nhất và sát với bài thơ “Mộ” nhất. Trong một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt câu chuyển đề bao giờ cũng quan trọng. Nó như chiếc bản lề khép mở hai thế giới, nó khép lại bức tranh thiên nhiên lúc buổi chiều và mở ra bức tranh sinh hoạt lúc buổi tối. Trong bài thơ “Cảm tưởng đọc thiên gia thi” Bác có phê phán: “Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹp. Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông.” Vậy mà trong tập “Ngục trung nhật ký”, nhất là trong bài thơ này hình ảnh “phong, hoa, tuyết, nguyệt” vẫn tràn đầy, điều này có gì là nghịch lý chăng? Mới nghe qua tưởng đó là nghịch lý. Nhưng nếu đặt trong hoàn cảnh này thì đó lại là một sự hợp lý sâu sắc. Bởi vị trí của thiên nhiên trong thơ Bác và trong thơ cổ khác nhau. Trong thơ xưa, thiên nhiên là chủ đề, con người chỉ là điểm xuyết cho cảnh, thiên nhiên che khuất, lấn át con người. Đó là cảnh: “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà.” Trong thơ Bác, thiên nhiên dù hùng vĩ đến đâu thì nó cũng chỉ làm nền cho con người. Con người trong thơ Bác mới là chủ thể, chủ thể ấy xuất hiện ở câu thơ thứ ba: “Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc” Hiện lên trên bức tranh này là hình ảnh người thiếu nữ. Không hpair đến đây ta mới bắt gặp hình ảnh người phụ nữ trong thơ. Nếu trong thơ cổ trung đại, người thiếu nữ xuất hiện trở thành trung tâm của cái đẹp thì trong thơ mới, người phụ nữ là phương tiện để truyền tải cái “tôi” cô đơn – đó là cái “tôi” buồn ảo não: “Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì/” Còn trong thơ Bác, người thiếu nữ lại xuất hiện trong công việc nhà nông – ma bao túc: “Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc.” Câu thơ này nhằm ca ngợi vẻ đẹp của con người trong lao động. Mặc dù vậy, đọc thơ Bác, ta vẫn nhận thấy qua từng câu là tình cảm nhân văn nhân đạo của người chiến sĩ cộng sản, hy sinh cả đời để bảo vệ quyền con người. Tình cảm nhân đạo và đôi cánh tình thương của Bác đã bước ra khỏi lĩnh vực của một quốc gia. Với thơ Hồ Chí Minh ta không còn thấy hình ảnh: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng.” Bác dành tình thương của mình cho những người Bác gặp trong lao tù. Nếu ở đây là hình ảnh “Người bạn tù thổi sao” thì kia là hình nahr vợ đến thăm chồng và kia nữa là hình ảnh “Cháu bé ở nhà lao Tân Dương”. Không chỉ dừng lại ở đó, Bác còn dành tình cảm của mình cho những người Bác gặp trên đường chuyển lao. Ta thấy hình ảnh “phu làm đường: đã bước vào trong thơ Bác: “Dãi dầm mưa nắng chẳng nghỉ ngơi. Phu đường vất vả lắm ai ơi. Ngựa xe hành khách thường qua lại Biết cảm ơn anh có mấy người.” Còn ở bài thơ “Chiều tối”, Bác dành tình cảm cho người thiếu nữ đang ở độ đầu xanh của tuổi trẻ nhưng phải làm việc vất vả trong thời điểm lẽ ra cô phải được nghỉ ngơi. Tình nhân đạo trong thơ Hồ Chí Minh là điểm sáng, là sức mạnh kết tinh từ trái tim một nhà văn nhân đạo cộng sản. Không chỉ dừng lại ở đó, đọc “Chiều tối” người đọc còn nhận thấy lời thơ nhằm tố cáo chế độ Tưởng Giới Thạch. Điều này được thể hiện rõ qua nghệ thuật đảo ngữ ở hai câu thơ cuối. Kết thúc câu thơ thứ ba là hình ảnh ‘ma bao túc” được đảo lại ở câu thơ thứ tư là “Bao túc ma”. Nghệ thuật này làm cho hai câu thơ bắt vòng lại với nhau. Tuy nhiên nó không chỉ đơn thuần là vòng của chiếc cối xay ngô, nó là vòng đời luẩn quẩn của những kiếp người sống dưới chế độ Tưởng Giới Thạch. Đọc thơ Bác ta nhớ tới “cây tre” của Thép Mới khi tác giả viết về sự luẩn quẩn của con người Việt Nam dưới chế độ Pháp thuộc: “Cối xay tre, nặng nề quay Từ nghìn đời nay, xay nắm thóc.” Một trong những đặc điểm cơ bản trong thơ Hồ Chí Minh là thơ Bác luôn vận động. Hướng vận động trong thơ Bác là từ hiện tại đến tương lai, từ bóng tối ra ánh sáng. “Mộ” là một bài thơ không nằm ngoại lệ. Bài thơ “Chiều tối”, ta cứ nghỡ trưởng rằng kết thúc bài thơ là một màn đêm đen đặc. Là một chiến sĩ cách mạng với niềm tin lạc quan phơi phới, Hồ Chí Minh đã kết thúc bài thơ của mình bằng màu hồng lí tưởng, màu hồng của cách mạng. Như vậy, chữ “hồng” trong câu thơ này là “nhãn tự” của bài thơ, mọi thời điểm, tụ điểm đều dồn đổ vào chữ “hồng”. Sức nặng của bài “Mộ” đều tập trung vào nó. Đầu tiên chữ “hồng” trong câu thơ này phải được hiểu đó là màu hồng được phát ra từ lò than. Có lẽ, màu hồng ấy được phát ra từ chiều. ĐIều này được thể hiện qua chữ “dĩ”. Trời càng tối thì màu hồng càng tỏa sáng. Tuy nhiên, để hiểu được chữ “hồng” trong câu thơ này, ta không thể hiểu nó theo nghĩa tường minh mà phải hiểu theo hàm ẩn. Đó là màu hồng trong tâm tưởng Bác, là màu hồng của cuộc cách mạng đang đến gần. Chẳng thế mà khi đọc thơ Bác, có một nhà phê bình đã nhận định: “Thơ Bác – thơ người chiến sĩ cộng sản, tay nắm chắc chân lý, mắt nhìn thấu cõi tương lai”. Nhưng sẽ chính xác hơn nếu màu hồng của câu thơ này là màu hồng phát ra từ trái tim nhân đạo vô bờ của chủ tịch Hồ Chí Minh. Màu hồng ấy chính là phẩm chất, là bản lĩnh của Hồ Chí Minh. Nhận định về vấn đề này, Chế Lan Viên có viết: “Người ghét sự chói chang Nhưng chính Người là nguồn ấm nóng Là vầng hồng đánh dẹp bóng đêm lui.” Như vậy rõ ràng chữ “hồng” đã làm cân bằng hai mươi bảy âm tiết còn lại trong thơ thất ngôn tứ tuyệt. Chữ “hồng” trong câu thơ này đã đẩy bóng đêm lui. “Chiều tối” là bài thơ viết về cảnh chuyển lao của một tù nhân, thậm chí cổ đeo gông, chân đeo xiềng. Nhưng đọc bài thơ này ta không nhận thấy thời thơ than vãn mà ở đó ta thấy chân dung của một người tù “tự do”. Một vẻ đẹp tưởng như nghịch lý nhưng lại hoàn toàn hợp lý. Bởi người tù đó chính là chủ tịch Hồ Chí Minh – một con người có bản lĩnh phi tường, chất thép cao cường mà không một nhà tù nào, gông xiềng nào có thể giam hãm được tinh thần “thép” của Hồ Chí Minh. Đó là tinh thần vượt ngục. Điều này được thể hiện ngay trong bài thơ đầu tiên của “Nhật ký trong tù”: “Thân thể ở trong lao Tinh thần ở ngoài lao Muốn làm nên nghiệp lớn Tinh thần càng phải cao.” Nên chăng ta mượn lại lời nhận định của nhà phê bình văn học Hoài Thanh để kết thúc bài viết của mình” “Khi Bác nói trong thơ nên có thép, ta phải hiểu thế nào là thép ở trong thơ. Có lẽ phải hiểu một cách linh hoạt mới đúng. Không phải cứ nói chuyện thép, lên giọng thép mới là có tinh thần thép”. “Mộ” là một bài thơ tiêu biểu như thế! Phần I. Đọc hiểu (3 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: Em là ai ? Cô gái hay nàng tiên Thịt da em hay là sắt là đồng ? Cho tôi hôn bàn chán em lạnh ngắt Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung Ôi trái tim em trái tim vĩ đại Còn một giọt máu tươi còn đập mãi Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời Cho quê hương em. Cho Tổ quốc, loài người! (Người con gái Việt Nam, Tố Hữu, Gió lộng, NXB Văn học, 1961) Câu 1: Đoạn trích trên được sáng tác vào giai đoạn văn học nào? Câu 2: Hình tượng nhân vật trung tâm của đoạn thơ là ai? Hình tượng nhân vật ấy được tác giả thế hiện với thái độ gì? Câu 3: Anh (chị) hãy chỉ ra và phân tích giá trị của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng ở đoạn thơ đầu. Câu 4: Trong khoảng từ 5 – 7 dòng, trình bày suy nghĩ của anh chị về vấn đề lẽ sống của tuối trẻ được đặt ra trong khổ thơ cuối cùng của đoạn trích . Phần II. Làm văn (7 điểm) Câu 1 (2 điểm): Bằng đoạn văn khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của anh (chị) về bài học mà người cha muốn nói với con trong bài thơ sau: Chẳng ai muốn làm hành khất Tội trời đày ở nhân gian Con không được cười giễu họ Dù họ hôi hám úa tàn Nhà mình sát đường họ đến Có cho thì có là bao Con phải răn dạy nó đi Nếu không thì con đem bán Mình tạm gọi là no ấm Ai biết cơ trời vần xoay Lòng tốt gửi vào thiên hạ Biết đâu nuôi bố sau này… (Dặn con, Trần Nhuận Minh) Câu 2 (5 điểm): Có ý kiến cho rằng: Sông Hương là bản tình ca ca ngợi về thiên nhiên và văn hóa xứ Huế. Qua phân tích tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường), hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. |
THẦY KHƯƠNG TRÊN FACEBOOK
|